Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo:

Phan Hữu N1, sinh ngày 07 tháng 9 năm 1988 tại Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn 5, xã P1, thị xã T1, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan M1 (đã chết) và bà Lê Thị T2; Vợ, con: Chưa có; tiền án: 01, tiền sự: Không;

Tháng 7/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Huế xét xử 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/10/2021; chuyển tạm giam ngày 07/10/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

- Bị hại:

+ Nguyễn Thị Thùy D1, sinh năm: 1994, địa chỉ: Thôn B3, xã Đ2, huyện L2 , tỉnh Thừa Thiên Huế; có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Trần Thị Mỹ D2, sinh năm: 1991, địa chỉ: Thôn DT2, xã Vinh Hưng, huyện L2 , tỉnh Thừa Thiên Huế; có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng: S, sinh năm: 1960, địa chỉ: Thôn B3, xã Đ2, huyện L2 , tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài, Phan Hữu N1 sinh ngày 07/9/1988, trú tại: Thôn 5, xã P1 , Thị xã T1đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác đem bán lấy tiền. Thực hiện ý định đó, N1 đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại thị xã T1và huyện V1 vào ngày 26/9/2021 và ngày 01/10/2021, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 12h00 ngày 26/9/2021 Phan Hữu N1 đi bộ đến Trung tâm y tế thị xã T1 tại phường Thủy Lương, thị xã T1 để tìm tài sản sở hở để trộm cắp. N1 đi đến tầng 3 khoa nội nhi, vào phòng điều trị dành cho người già thì thấy trong phòng có một số bệnh nhân và người nhà bệnh nhân đang nằm ngủ. N1 quan sát phát hiện trên giường bệnh cuối phòng (cạnh cửa sổ) có chị Nguyễn Thị Thùy D1, sinh năm: 1994, trú tại: thôn B3, xã Đ2, huyện L2 đang nằm ngủ, cuối giường có để túi xách, bên trong có một ví da màu hồng, N1 lén lút đến lấy trộm ví da màu hồng đó rồi tẩu thoát ra khu vực bụi rậm phía sau tường rào Trung tâm y tế. N1 kiểm tra phát hiện trong ví có số tiền 45.000đồng và một số giấy tờ tùy thân gồm CMND, giấy phép lái xe, thẻ bảo hiểm y tế, giấy xác nhận tiêm vacxin covid-19 mang tên Nguyễn Thị Thùy D1. N1 lấy 45.000đồng trong ví cất trong người rồi vứt toàn bộ các tài sản còn lại phía ngoài tường rào của Trung tâm y tế rồi tẩu thoát. Số tiền trộm cắp được N1 đã tiêu xài hết.

* Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T1kết luận: Ví da nữ màu hồng hiệu EASTERSTAR, kích thước 20x10cm N1 trộm cắp của chị Nguyễn Thị Thùy D1 vào ngày 26/9/2021 có giá trị: 30.000đồng.

Vụ thứ 2: Khoảng 13 giờ 00 ngày 01/10/2021, Phan Hữu N1 đi bộ đến Trung tâm y tế huyện V1 tại thị Trấn Phú Đa, huyện V1 tìm kiếm để lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. N1 leo hàng rào đi vào bên trong, đến phòng Phụ sản 2 - khoa Phụ sản của Trungtâm y tế thì thấy có chị Trần Thị Mỹ D2 sinh năm 1991, trú tại: thôn DT2, xã Vĩnh Hưng, huyện L2 ôm con nằm ngủ trên giường bệnh, phía đầu giường có một điện thoại di động hiệu OPPO Reno5 có ốp lưng màu trắng (trong ốp lưng có để 01 giấy CMND mang tên Trần Thị Mỹ D2), giường đối diện có một người lớn tuổi đang nằm ngủ. Thấy vậy, N1 đi vào trong phòng lấy trộm điện thoại OPPO Reno5 của chị D2 bỏ vào túi quần rồi tẩu thoát. Trên đường về, N1 tháo sim vứt rồi đi về Trung tâm y tế thị xã T1với mục đích tiếp tục vào để lấy trộm. Khi vừa đi vào Trung tâm y tế thị xã thị bị Công an thị xã T1mời về trụ sở làm việc.

* Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V1 kết luận: Điện thoại di động hiệu OPPO Reno5 màu bạc, số imei 1: 865545052735931, số imei 2: 865545052735923 có giá trị: 6.300.000đồng; Ốp lưng điện thoại di động bằng nhựa màu trắng có giá trị: 15.000đồng.

Tổng số tài sản bị cáo N1 chiếm đoạt là: 6.390.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Phan Hữu N1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

* Vật chứng thu giữ:

- Ví da màu hồng hiệu EASTERSTAR, kích thước 20x10cm - Giấy CMND; Giấy phép lái xe; Thẻ bảo hiểm y tế; Giấy xác nhận tiêm vacxin covid-19 mang tên Nguyễn Thị Thùy D1.

- Điện thoại di động hiệu OPPO Reno5 màu bạc, số imei 1: 865545052735931, số imei 2: 865545052735923.

- Ốp lưng điện thoại di động bằng nhựa màu trắng.

- Giấy CMND mang tên Trần Thị Mỹ D2.

* Xử lý vật chứng: Các vật chứng trên Cơ quan Công an đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại chủ sở hữu.

* Về mặt dân sự:

Những người bị hại là chị Nguyễn Thị Thùy D1 và chị Trần Thị Mỹ D2 không có yêu cầu bồi thường gì.

Tại bản cáo trạng số 56/CT-VKS-P2 ngày 26/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố bị cáo Phan Hữu N1 về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, khoản 1, Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015; Xử phạt bị cáo Phan Hữu N1 từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phan hữu N1 khai nhận: Ngày 26/9/2021, tại Trung tâm y tế thị xã T1 bị cáo đã lấy trộm của chị Nguyễn Thị Thùy D1 01 ví da, bên trong có 45.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân. Theo kết luận định giá tài sản chiếc ví da của chị D1 trị giá: 30.000 đồng. Ngày 01/10/2021, tại Trung tâm y tế huyện V1 bị cáo đã lấy trộm của chị Trần Thị Mỹ D2 01 điện thoại OPPO Ren05 và 01 chứng minh nhân dân mang tên chị D2. Theo kết luận định giá tài sản điện thoại và ốp lưng điện thoại của chị D2 trị giá: 6.315.000 đồng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của các bị hại và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Tổng giá trị tài sản bị cáo N1 chiếm đoạt là: 6.390.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Vì vậy, Viện kiểm sát tỉnh Thừa Thiên Huế truy tố bị cáo Phan Hữu N1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự và lời buộc tội của Kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, tạo dư luận xấu, gây bức xúc trong xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử phạt tù nhưng vẫn không rút kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Bị cáo đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Hữu N1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Hữu N1 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 01/10/2021.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Phan Hữu N1 phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về