TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 17/2022/HS-PT NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 02 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 31/2022/TLPT-HS ngày 18 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo Phan Văn T, sinh năm 1971; Tên gọi khác: Không;
Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Khu 10, xã HX, huyện TT, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Con ông: Phan Văn C và bà Nguyễn Thị Đ; Có vợ Hoàng Thị H (đã ly hôn) và có 01 con.
- Tiền án:
+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm 56/2019/HSST ngày 19/11/2019, Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Tại Bản án hình sự phúc thẩm 17/2020/HSPT ngày 21/02/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ, giữ nguyên bản án sơ thẩm, xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bị cáo ra trại ngày 16/3/2021).
- Tiền sự: không - Nhân thân:
+ Tại Bản án số 24/HS-ST ngày 14/01/1998, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt T sản”.
+ Tại Bản án số 132 ngày 05/10/1998, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Cưỡng đoạt T sản của công dân”. Tổng hợp với hình phạt của bản án số 24/HS-ST ngày 14/01/1998, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội là 03 năm tù giam.
+ Tại Bản án số 97/HSST ngày 07/4/2002, Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 08/01/2019, Công an xã Trung Thịnh, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Luật sư bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn Độ - Văn phòng luật sư Cao Đức – Đoàn luật sư tỉnh Bắc Giang.
Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 220/2021/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Phan Văn T có quan hệ tình cảm với chị Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1974 ở số nhà 04, ngõ 11, tổ 5, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang. Khoảng tháng 6/2021, T đến nhà chị O ở và đi làm thợ xây cho các công trình trên địa bàn thành phố Bắc Giang. Sáng ngày 10/8/2021, T điều khiển xe máy điện BKS 98MĐ1- 115.14 đi từ nhà chị O đến đổ bê tông tại công trình xây dựng ở phường Mỹ Độ, thành phố Bắc Giang do anh Hà Văn S, sinh năm 1968 ở thôn Hương Mãn, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang làm chủ thầu. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi công việc đã xong, T điều khiển xe máy điện trên đi quanh thành phố Bắc Giang. Khi đi đến cánh đồng thuộc thôn An Phú, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang, T quan sát thấy có 01 con trâu ở giữa cánh đồng, xung quanh không có người trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp con trâu này để đem đi bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Để tránh bị phát hiện, T điều khiển xe đi vào đường đất ở giữa cánh đồng trồng dâu gần đó và dựng xe ở một đoạn khuất tầm nhìn của người đi đường rồi đi bộ tiến đến vị trí con trâu. Đến nơi, T phát hiện thấy con trâu này được sỏ sẹo bằng một đoạn chạc vào lỗ mũi, đầu chạc còn lại buộc vào một chiếc cọc tre được đóng cố định xuống nền đất ruộng. Cách vị trí mũi trâu khoảng hơn 2m có 01 đoạn chạc nối. Gần đó, T thấy có 1 con trâu con. T tiến đến vị trí nối giữa 2 đoạn chạc, dùng 2 tay cởi mấu nối sau đó cầm chạc và đuổi trâu đi. Quá trình trâu mẹ đi thì T thấy con trâu con cũng đi theo. Khi T dắt trâu mẹ đi được khoảng gần 30m thì anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1966 ở thôn Phú Giã, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang là chủ trâu phát hiện tri hô và đuổi theo T nhưng không kịp. Bị phát hiện, T đuổi trâu xuống ruộng rồi bỏ chạy đến vị trí xe máy điện và lên xe chạy trốn. Cùng lúc đó, nghe thấy tiếng tri hô của anh M, anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1978 ở khu 34, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang dùng xe mô tô đi vào đoạn đường giữa cánh đồng dâu đuổi theo, sau đó bắt giữ được T khi đang chạy trốn bằng xe máy điện rồi bàn giao cho cơ quan Công an để phục vụ quá trình điều tra.
Ngày 10/8/2021, anh M làm đơn trình báo vụ việc và giao nộp 01 đoạn dây thừng dài 7,2m, một đầu có buộc một cọc tre dài 28cm, đường kính 4cm để phục vụ công tác điều tra. Sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan điều tra đã xác định hiện trường và thực nghiệm điều tra vụ án. Kết quả, T đã thực hiện lại hành vi Trộm cắp tài sản như đã khai tại Cơ quan điều tra.
Tại cơ quan Công an, T đã khai nhận rõ toàn bộ nội dung sự việc phạm tội của mình và có đơn xin đầu thú. Cơ quan điều tra thu giữ của T 01 điện thoại di động Samsung, màu đen đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, màu đen đã qua sử dụng.
Tại bản kết luận định giá T sản số 117 ngày 16/8/2021 của Hội đồng định giá T sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận: 01 con trâu con nặng 120 kg (cân hơi), cân ngày 10/8/2021, trâu đang còn sống, có trị giá là 10.000.000 đồng Tại bản kết luận định giá T sản số 118 ngày 16/8/2021 của Hội đồng định giá T sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận: 01 con trâu mẹ nặng 540 kg (cân hơi), cân ngày 10/8/2021, trâu đang còn sống, có trị giá là 45.900.000 đồng.
Quá trình điều tra, T khai quá trình trộm trâu mẹ thấy có 01 con trâu con đi theo, tuy nhiên T không thừa nhận ý định trộm cắp con trâu con. Căn cứ vào các T liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án không có căn cứ để buộc tội T về hành vi này.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 220/2021/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang đã căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Văn T 02 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 11/8/2021.
Ngoài ra bản án còn xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17/12/2021 bị cáo có đơn kháng cáo kêu oan.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn, đúng theo quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên kháng cáo của các bị cáo là hợp pháp, HĐXX xem xét giải quyết kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo, HĐXX thấy rằng:
+ Về tội danh: Tại phiên toà, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội và cho rằng, bị ép cung phải nhận tội trong quá trình điều tra, tuy nhiên bị cáo không có T liệu, chứng cứ chứng M. Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của người bị hại là ông Nguyễn Văn M, người làm chứng là ông Nguyễn Văn Đ và Biên bản thực nghiệm điều tra ngày 12/8/2021.
Tại Biên bản thực nghiệm điều tra “bị cáo Phan Văn T tự thực hiện thuần thục hành vi dùng hai tay tháo điểm nối giữa hai đoạn dây thừng buộc vào cọc và buộc vào mũi con trâu, tự thực hiện thuần thục hành vi dùng tay trái cầm dây thừng đi sau con trâu và dẫn trâu đi theo hướng từ vị trí cọc về hướng để xe máy điện”. Bị cáo đã tự xác định được lại vị trí cắm cọc để buộc dây thừng, vị trí để chiếc xe đạp điện, vị trí bị cáo và con trâu bị phát hiện, vị trí đứng tháo điểm nối dây thừng… Các vị trí bị cáo xác định phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 11/8/2021.
Người bị hại là anh Nguyễn Văn M và người làm chứng Nguyễn Văn Đ là người trực tiếp nhìn thấy bị cáo đang thực hiện hành vi phạm tội, tầm nhìn không bị che khuất và liên tục; anh Đ và anh M cũng miêu tả chính xác quần áo của bị cáo mặc khi thực hiện hành vi phạm tội; nhận dạng chính xác… và bắt giữ bị cáo khi bị cáo bỏ chạy.
Mặc dù tại phiên tòa bị cáo không nhận tội nhưng căn cứ vào lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại, người làm chứng, kết quả thực nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, biên bản nhận dạng cũng như những chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phan Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
+ Về hình phạt: HĐXX thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, liên tục phạm tội và bị xét xử về các tội xâm phạm quyền sở hữu T sản. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo 02 năm 09 tháng tù, HĐXX phúc thẩm xét thấy là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.
Bản án hình sự sơ thẩm số 220/2021/HS-ST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, HĐXX thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[3] Án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Văn T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 220/2021/HS-ST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Phan Văn T 02 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 11/8/2021.
[2]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2022/HS-PT
Số hiệu: | 17/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về