TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 140/2021/HS-ST NGÀY 29/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 146 /2021/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 148/2021/HSST-QĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:
Trần Văn N, sinh ngày 07/ 12/ 1992 tại Vĩnh Phúc; nơi cư trú: TDP T, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Y và bà Nguyễn Thị N; vợ: Trần Thị Kim C (đã ly hôn), có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2021 cho đến nay (có mặt).
Bị hại: Anh Nguyễn Việt C, sinh năm 1994; trú tại: Thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).
Anh Lưu Văn M, sinh năm 1996; trú tại: Thôn S, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Nguyên, sinh năm 1954; trú tại: TDPThống Nhất, TT.Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Văn N là đối tượng không có nghề nghiệp. Do không có tiền tiêu sài cá nhân nên vào ngày 24/8/2021 và ngày 25/9/2021, N đã thực hiện hai vụ trộm cắp xe mô tô trên địa bàn thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 01h ngày 24/8/2021, N một mình từ phòng trọ của mình ở TDP Đê Hến, thị trấn Bá Hiến đi lang thang trên địa bàn thị trấn Bá Hiến để tìm kiếm nhà dân có tài sản sơ hở thì sẽ trộm cắp bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Khi N đi đến khu nhà trọ của gia đình ông Dương Văn V ở TDP Văn Giáo, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc thì thấy cổng nhà trọ vẫn mở không đóng khóa, bên trong sân nhà trọ để khoảng 20 chiếc xe mô tô các loại nhãn hiệu khác nhau. N quan sát không có người qua lại, N đi vào cổng tiến đến vị trí dựng những chiếc xe mô tô rồi dùng tay lần lượt kiểm tra các xe, xem chiếc xe nào không khóa cổ, khóa càng thì N sẽ lấy trộm. Khi N kiểm tra đến chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter màu sơn đỏ đen, BKS: 88K1 - 271.54 của anh Nguyễn Việt C ở thôn Lá, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc thấy xe không khóa cổ, khóa càng. N lén lút dắt chiếc xe mô tô của anh C ra khỏi nhà ông V, đem đi cất giấu tại một ruộng sắn ở TDP Đê Hến, thị trấn Bá Hiến. Quá trình cất giấu xe tại ruộng sắn, N dùng điện thoại Iphone 6s màu vàng của mình chụp lại một số kiểu ảnh về chiếc xe rồi đăng hình ảnh chiếc xe lên mạng xã hội Facebook để giao bán. Sau đó, N đi về phòng trọ đăng nhập Facebook cá nhân bằng tài khoản Bùi Ngọc T do N lập và đăng ảnh rao bán xe mô tô vừa trộm cắp được. Đến ngày 26/8/2021 có một tài khoản Facebook (N không N tên) liên hệ với N hỏi mua chiếc xe mô tô N giao bán. Người này giới thiệu tên là Thảo, sau đó N và Thảo trao đổi thống nhất bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter, BKS: 88K1 - 271.54 với giá là 8.000.000 đồng. Cả hai hẹn gặp nhau ở ngã tư đèn đỏ hướng UBND thị trấn Gia Khánh đi thôn Hoàng Oanh, Hương Sơn, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc để giao tài sản. Đến khoảng 18h30 cùng ngày, N đi bộ từ nhà trọ đến vị trí ruộng sắn nơi cất giấu xe mô tô trộm cắp được vào sáng 24/8/2021, N thò tay vào bên trong mặt nạ phía trước của xe kéo dây nguồn điện ra rồi đấu nối thì thấy lên đèn báo hiệu của xe. Sau đó, N nổ máy điều khiển xe đi đến điểm hẹn bán xe. Khi đến điểm hẹn N dùng điện thoại Iphone 6s màu vàng gọi bằng hệ thống Mesenger cho nam giới mua xe thì thấy 01 nam giới, khoảng 35 tuổi cao khoảng 1,7m đứng ở ven đường. N tiến đến hỏi “Có phải Thảo không” thì nam giới này trả lời là “Ừ, xe đây à”. Sau đó, nam giới này kiểm tra xe và đưa cho N 8.000.000 đồng. N cầm tiền đúc vào túi quần đang mặc và giao lại xe cho Thảo. Sau đó, N bắt taxi về phòng trọ. Số tiền bán xe được N đã tiêu sài cá nhân hết.
Quá trình điều tra, CQĐT không thu giữ được xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter màu sơn đỏ đen, BKS: 88K1 - 271.54 nên đã tiến hành thu giữ hồ sơ đăng ký xe mô tô trên tại Công an huyện Tam Dương phục vụ công tác định giá.
Tại Kết luận định giá tài sản số 126 ngày 08/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Xuyên, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter BKS: 88K1 - 271.54 trị giá 21.150.000 đồng.
Vụ thứ hai: Với phương thức thủ đoạn như trên, khoảng hơn 01h ngày 25/9/2021, N trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter màu sơn xanh bạc, BKS: 88E1 - 298.82 của anh Lưu Văn M ở thôn Sơn Đồng, xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc dựng ở trước cửa phòng trọ số 03 của gia đình ông Nguyễn Văn A ở TDP Thống Nhất, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc rồi tiếp tục mang cất dấu tại cánh đồng sắn gần phòng trọ của N ở TDP Đê Hến, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên. Sau đó, N đi về phòng trọ lấy 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 15 cm có chuôi cầm bằng nhựa màu đen, thân bằng kim loại, có một đầu dẹt rồi cầm chiếc tuốc nơ vít trên đến vị trí cất giấu chiếc xe mô tô mà N vừa trộm cắp được. N dùng chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng của N vào mạng, xem cách đấu nối điện từ ắc quy, N dùng chiếc tuốc nơ vít cạy cốp xe và đấu nối điện thì chiếc xe lên đèn báo hiệu. N đề nổ máy, khởi động được xe rồi N để chiếc tuốc nơ vít ở giá để hàng trước vị trí ngồi ở yên xe và điều khiển chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được lên thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm cửa hàng tiêu thụ nhưng không tìm được. N thuê nhà nghỉ ngủ ở Phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên nghỉ tại đây đến khoảng 07h30 cùng ngày thì trả phòng. Sau đó, N lấy 01 khẩu trang y tế màu xanh của mình che biển kiểm soát của xe mô tô để tránh bị phát hiện, N tiếp tục điều khiển xe mô tô đi tìm nơi tiêu thụ. Khi N đi đến ngã tư đèn đỏ gần siêu thị Copmark thuộc thành phố Vĩnh Yên thì bị Công an phường Khai Quang kiểm tra, phát hiện đưa N về trụ để làm việc. Tại cơ quan điều tra N đã khai nhận toàn bộ nội dung trộm cắp 02 chiếc xe mô tô ngày 24/8/2021 và 25/9/2021.
Quá trình điều tra, CQĐT đã tạm giữ: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter màu sơn xanh bạc, BKS: 88E1 - 298.82; 01 chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng số Imei: 353270076864463 của N để phục vụ công tác điều tra.
Tại Kết luận định giá tài sản số 121 ngày 28/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Xuyên, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter màu sơn xanh bạc BKS: 88E1-298.82 trị giá 20.666.000 đồng.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter, BKS: 88K1 - 271.54, N chiếm đoạt của anh C và đã đem bán đến nay cơ quan CSĐT không thu giữ được. Anh C yêu cầu N phải bồi thường thiệt hại chiếc xe mô tô cho anh. Quá trình điều tra, N đã tác động nhờ bà Nguyễn Thị N là mẹ đẻ của N bồi thường giúp. Ngày 11/11/2021, bà Nguyên đã thay N bồi thường cho anh C số tiền 20.000.000 triệu đồng. Sau khi nhận tiền, anh C không có yêu cầu đề nghị gì và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bà Nguyên cũng không đề nghị N phải trả lại bà số tiền này nên không đặt ra giải quyết.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh BKS: 88E1- 298.82, quá trình điều tra xác định được chủ sở hữu hợp pháp là anh Lưu Văn M. Ngày 05/10/2021, cơ quan CSĐT đã trả lại xe mô tô cho anh Lưu Văn M. Sau khi nhận lại tài sản anh M không có yêu cầu đề nghị gì.
Đối với chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng của N dùng để liên lạc trao đổi bán chiếc xe mô tô trộm cắp được của anh C. Do vậy cần tịch thu bán phát mại sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 15 cm có chuôi cầm bằng nhựa màu đen, thân bằng kim loại, có một đầu dẹt, N khai dùng để đấu nối điện xe, quá trình di chuyển N đánh rơi, cơ quan CSĐT không thu giữ được nên không đề cập xử lý.
Tại Cáo trạng số 151/CT-VKSBX ngày 30 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đã truy tố bị cáo Trần Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn N từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù.
Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn N thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như bản cáo trạng, không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Trần Văn N khai nhận tội phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với vật chứng thu được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận:
Do không có nghề nghiệp, thiếu tiền tiêu sài cá nhân, Trần Văn N đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thị trấn Bá Hiến, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng hơn 01h ngày 24/8/2021 tại khu nhà trọ của gia đình ông Dương Văn V ở TDP Văn Giáo, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Trần Văn N lén lút trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter màu sơn đỏ đen, BKS: 88K1 - 271.54 trị giá 21.150.000 đồng của anh Nguyễn Việt C ở thôn Lá, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, sau đó đem bán được 8.000.000 đồng và sử dụng chi tiêu cá nhân hết.
Vụ thứ hai: Khoảng hơn 01h ngày 25/9/2021, tại gia đình nhà ông Trần Văn A ở TDP Thống Nhất, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, N lén lút trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter màu sơn xanh bạc, BKS: 88E1 - 298.82 trị giá 20.666.000 đồng của anh Lưu Văn M ở thôn Sơn Đồng, xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Tổng trị giá tài sản N chiếm đoạt của anh C và anh M là 41.816.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, làm quần chúng nhân dân hoang mang, lo sợ. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[2] Xéttính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhân thân của người phạm tội, Hôi đông xet xư nhân t:hây Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.
Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt, bản thân có sức khỏe và có hiểu biết nhất định về pháp luật nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân để làm ăn chân chính mà lại lợi dụng sơ hở của người khác để trộm cắp tài sản. Trong vụ án này bị cáo một mình thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Do đó, việc cho bị cáo được cải tạo tại địa phương sẽ không có tác dụng giáo dục, cân chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.
Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã tác động gia đình tích cực bồi thường thiệt hại cho người bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có công việc ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng của N dùng để liên lạc trao đổi bán chiếc xe mô tô trộm cắp được của anh Cường. Do vậy cần tịch thu bán phát mại sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 15 cm có chuôi cầm bằng nhựa màu đen, thân bằng kim loại, có một đầu dẹt, N khai dùng để đấu nối điện xe, quá trình di chuyển N đánh rơi, cơ quan CSĐT không thu giữ được nên không đề cập xử lý.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn N 01 năm 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 27/9/2021.
Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu bán phát mại nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu vàng của Trần Văn N dùng vào việc phạm tội.
(Đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/11/2021) Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; buộc Trần Văn N phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 140/2021/HS-ST
Số hiệu: | 140/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về