Bản án về tội trộm cắp tài sản số 122/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 122/2021/HS-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 119/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Hoong Văn T, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 23 tháng 5 năm 1993 tại huyện N, tỉnh Bắc Giang; nơi cư trú: Thôn G, xã S, huyện N, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoong Văn C, sinh năm 1967 (đã chết) và bà Lê Thị Đ, sinh năm 1968; vợ, con: Không có; tiền án: Không có; tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 09/QĐ-TA ngày 27-6-2019 của Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang với thời gian chấp hành là 18 (mười tám) tháng, bị cáo đã chấp hành xong chưa được xoá tiền sự; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị xử lý hành chính chưa được xoá tiền sự, chưa bị xử lý kỷ luật; bị bắt tạm giữ ngày 27-9-2021, tạm giam ngày 30-9-2021 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Chị Hoàng Thị P, sinh năm 1975, địa chỉ: Xóm T, xã S, huyện T, tỉnh Bắc Giang; có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Bá C, địa chỉ: đường T, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Chị Nông Xuân H, địa chỉ: đường T, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 27-9-2021, Hoong Văn T, sinh năm 1993, trú tại Thôn G, xã S, huyện N, tỉnh Bắc Giang đang đi bộ tại khu vực M thuộc xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn thấy phòng trọ của chị Hoàng Thị P, sinh năm 1975, địa chỉ thôn C, xã S, huyện Y, tỉnh Bắc Giang đang mở cửa mà không có người trong nhà. Sau khi quan sát không có người xung quanh, Hoong Văn T lén lút đi vào phòng thì nhìn thấy trên tủ lạnh trong phòng có 01 chiếc điện thoại di động Iphone 12 ProMax đang cắm sạc, Hoong Văn T rút sạc rồi lấy chiếc điện thoại cất vào túi áo khoác màu đen Hoong Văn T đang mặc rồi đi bộ đến cửa hàng mua bán điện thoại Cường Mobile tại đường T, xã T, huyện L gặp chị Nông Xuân H, sinh năm 1986, Hoong Văn T nói muốn bán chiếc điện thoại nên chị Nông Xuân H đã gọi anh Nguyễn Bá C (chủ cửa hàng), sinh năm 1983 ra để xem điện thoại. Nguyễn Bá C kiểm tra điện thoại thấy có mật khẩu nên hỏi Hoong Văn T thì Hoong Văn T nói đây là máy điện thoại nhặt được nên không biết mật khẩu, vì vậy Nguyễn Bá C chỉ đồng ý mua với giá 2.000.000 (hai triệu) đồng, Hoong Văn T đồng ý rồi dùng 1.000.000 (một triệu) đồng để mua lại chiếc điện thoại di động XIAOMI REDMI 5 (là chiếc điện thoại Hoong Văn T bán cho anh Nguyễn Bá C ngày 25-9-2021), còn 1.000.000 (một triệu) đồng Hoong Văn T nhận tiền mặt. Sau khi bán điện thoại xong, Hoong Văn T đi bộ về đến ngã tư Nngân hàng BIDV thuộc xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn thì bị tổ công tác Công an xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Đồn Biên phòng Tân Thanh kiểm tra và đưa về trụ sở Công an xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn để làm rõ sự việc và thu giữ đồ vật, tài liệu sau: 02 (hai) tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng, 01 (một) điện thoại di động hiệu XIAOMI REDMI 5 thu giữ của Hoong Văn T; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 ProMax thu giữ của anh Nguyễn Bá C.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 19/KL-HĐĐGTS ngày 29-9-2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Văn Lãng kết luận: Giá trị tài sản cần định giá là 25.167.000 (Hai mươi năm triệu một trăm sáu mươi bảy nghìn) đồng).

Tại bản Kết luận giám định số 444/KLGĐ-PC09 ngày 16-10-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền Việt Nam gồm: 1.000.000 (một triệu) đồng trong phong bì niêm phong gửi giám định đều là tiền thật.

Tại bản Cáo trạng số 110/CT-VKS ngày 30-11-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Hoong Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Hoong Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và không khai báo bổ sung. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Sau khi quan sát xung quanh thấy không có người, Hoong Văn T đã lén lút đi vào phòng chị Hoàng Thị P lấy trộm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 ProMax, có giá trị 25.167.000 (hai mươi lăm triệu một trăm sáu mươi bẩy nghìn) đồng.

Bị hại chị Hoàng Thị P trong đơn xin xét xử vắng mặt trình bày: Giữ nguyên ý kiến tại các lời khai ở cơ quan điều tra, chị đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại và không yêu cầu gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Bá C trình bày: Anh không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có; anh không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 2.000.000 đồng và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoong Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Hoong Văn T từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 (hai) tờ tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng.

Tịch thu hoá giá nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu XIAOMI REDMI 5 cũ đã qua sử dụng, màu vàng hồng, số Seri 55a453c0804.

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không khiếu nại quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại chị Hoàng Thị P, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên đến vụ án anh Nguyễn Bá C, Nông Xuân H có đơn xin xét xử vắng mặt, đã có lời khai trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, việc vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên đến vụ án không ảnh hưởng đến việc xét xử, căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản sự việc ngày 27-9-2021; lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 06 giờ ngày 27-9-2021, tại phòng trọ của chị Hoàng Thị P ở khu vực khu vực M thuộc xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi quan sát xung quanh thấy không có người, Hoong Văn T đã lén lút đi vào phòng chị Hoàng Thị P lấy trộm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 ProMax, có giá trị 25.167.000 (Hai mươi năm triệu một trăm sáu mươi bảy nghìn) đồng. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Hoong Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Chính vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi của mình gây ra, nhằm để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi bị cáo đã thực hiện; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án; đã có 01 tiền sự chưa được xoá tiền sự; do đó xác định bị cáo là người có nhân thân xấu.

[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ mới đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 (năm triệu) đồng đến 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng. Tại biên bản xác minh ngày 01-11-2021 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang xác nhận và tại phiên tòa bị cáo khai không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng, không có khả năng để bảo đảm thi hành án vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[10] Đối với chị Nông Xuân H, do không biết việc trao đổi mua bán điện thoại giữa bị cáo Hoong Văn T và anh Nguyễn Bá C nên không có căn cứ để xử lý. Đối với anh Nguyễn Bá C, khi trao đổi mua bán điện thoại Hoong Văn T đã nói dối là điện thoại nhặt được nên anh Nguyễn Bá C không biết chiếc điện thoại là tài sản do phạm tội mà có, do vậy không có căn cứ để xử lý.

[11] Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, trong quá trình điều tra, Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại cho bị hại chị Hoàng Thị P theo Quyết định số 26 ngày 01-10-2021 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn và biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 04-10-2021; nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[12] Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 (hai) tờ tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng; tịch thu hoá giá nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu XIAOMI REDMI 5 cũ đã qua sử dụng, màu vàng hồng, số Seri 55a453c0804; đây là những tài sản do phạm tội mà có theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[13] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[14] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ khoản 2 Điều 136; Điều 331; 332; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoong Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Hoong Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 27- 9-2021.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 (hai) tờ tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng.

- Tịch thu hoá giá nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu XIAOMI REDMI 5 cũ đã qua sử dụng, màu vàng hồng, số Seri 55a453c0804.

(Hin vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03-12-2021).

4. Về án phí: Bị cáo Hoong Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 122/2021/HS-ST

Số hiệu:122/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về