Bản án về tội tội trộm cắp tài sản số 291/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 291/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân thành phố D và điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 258/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

292/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Phạm Thanh Q (tên gọi khác M), sinh năm 1992 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn C, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1958; có 05 anh em, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1996; có vợ Cao Thị Mỹ L, sinh năm 1990 (đã ly hôn), có 01 con ruột, sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 16/12/2016 bị Chủ tịch phường T, thành phố D (thị xã D cũ) quyết định số 743/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Phạm Thanh Q về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian 03 tháng từ ngày 16/12/2016 đến ngày 16/3/2017; Ngày 8/6/2017 bị Tòa án nhân dân tthành phố D (thị xã D cũ) áp dụng biện pháp xử lý hành chính số 62/QĐ-TA đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 01 năm. Bị bắt tạm giữ tạm giam ngày 03/8/2022, có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Ngọc Anh D, sinh năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Ngọc D, sinh năm 1962 và bà Phạm Thị Kim O, sinh năm: 1961; có vợ Nguyễn Thị Cẩm T, sinh năm 1989; có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ tạm giam ngày 21/5/2022, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Phạm Thị Thanh D, sinh năm 1990; thường trú: Xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Nguyễn Thị T, sinh năm 1958; thường trú: Khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có mặt.

2. Phạm Thị Thanh K, sinh năm 1993; thường trú: Xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Ngọc Anh D là bạn của Phạm Thanh Q (M). Khoảng 03 giờ ngày 21/5/2022, D đang ngủ tại phòng trọ thuộc địa chỉ khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, thì Q đến phòng rủ D đi công việc. Q điều khiển xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Dream (không rõ biển số) chở D đến trước cửa hàng Photocopy T, địa chỉ khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, do chị Phạm Thị Thanh D làm chủ. Q dừng lấy theo chiếc kìm cộng lực để cắt ổ khóa, D đứng ngoài cảnh giới, Q vào bên trong khoảng 10 phút thì đi ra mang theo 01 giỏ xách nữ màu hồng chứa 03 lap top nhãn hiệu Sam sung, Lynovo, Sony và tiền mặt 6.850.000 đồng. Sau đó, Q tiếp tục quay vào tiệm dắt xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Janus màu xanh biển số 86B8-487.36. Do xe không có chìa khóa, nên Q nói với D dùng xe Dream đẩy xe mô tô vừa trộm được về phòng trọ của Duy.

D để xe mô tô biển số 86B8-487.36 tại đầu hẻm phòng trọ của D, thuộc Khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Sáng hôm sau, D nhiều lần liên hệ và đi tìm Q nhưng không tìm thấy, sợ bị phát hiện hành vi nên 08 giờ ngày 21/5/2022, D đến Công an phường D tự thú hành vi của mình.

Ngày 03/8/2022, Phạm Thanh Q đến Công an thành phố D đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Phạm Thanh Q khai nhận sau khi trộm được tài sản đã điều khiển xe Honda Dream về nhà, rồi sau đó quay lại Khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương để đẩy bộ xe mô tô biển số 86B8- 487.36 vừa trộm được đến khu phố T, phường D, thành phố D, để đấu dây điện cho xe nổ máy nhưng xe không nổ máy được nên Q để lại xe đi về nhà.

Vật chứng thu giữ: Xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Janus màu xanh biển số 86B8-487.36 và 01 USB ghi lại video sự việc do bị hại Phạm Thị Thanh D giao nộp (kèm theo trong hồ sơ vụ án).

Tại Kết luận định giá tài sản số 53 ngày 30/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố D, trị giá xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Janus màu xanh biển số 86B8-487.36 có trị giá 20.000.000 đồng, trị giá 03 laptop là 9.000.000 đồng. Tổng cộng giá trị mà D và Q trộm cắp là 35.850.000 đồng.

Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Janus màu xanh biển số 86B8-487.36, 03 lap top nhãn hiệu Sam sung, Lynovo, Sony và tiền mặt 6.850.000 đồng là của bà Phạm Thị Thanh D, bà D nhờ em gái là bà Phạm Thị Thanh K đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe. Đã trả lại xe cho bà D là có căn cứ.

Đi với 03 lap top nhãn hiệu Sam sung, Lynovo, Sony, Q khai nhận sau khi trộm cắp được thấy 03 lap top không sử dụng được đã vứt bỏ tại bãi đất trống trên đường Nguyễn Văn S thuộc Khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Hiện không thu hồi được.

Đi với chiếc kìm cộng lực Q dùng để cắt ổ khóa đột nhập trộm cắp tài sản, Q khai đã bán cho người phụ nữ (không rõ nhân thân, địa chỉ) buôn bán phế liệu.

Đi với số tiền 6.850.000 đồng, Q đã sử dụng vào việc cá nhân hết.

Đi với xe mô tô nhãn hiệu Dream (không rõ biển số), Q khai nhận mượn của bạn tên T (không rõ nhân thân, địa chỉ) nên tiếp tục xác minh, làm rõ, khi nào xác minh làm rõ sẽ tiến hành xử lý theo quy định.

Trách nhiệm bồi thường dân sự: Bà Nguyễn Thị T là mẹ ruột của Phạm Thanh Q đã bồi thường cho bị hại bà Phạm Thị Thanh D, tổng số tiền 36.000.000 đồng. Bà D không yêu cầu bồi thường gì thêm, và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Phạm Thanh Q.

Tại cáo trạng số 279/CT–VKS-DA ngày 29 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Phạm Thanh Q, Phạm Ngọc Anh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Anh D, mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù và áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Thanh Q, mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Đối với xe mô tô nhãn hiệu Dream (không rõ biển số), Q khai nhận mượn của bạn tên T (không rõ nhân thân, địa chỉ) nên tiếp tục xác minh, làm rõ, khi nào xác minh làm rõ sẽ tiến hành xử lý theo qui định.

Tại phiên tòa, các bị cáo không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra người chứng kiến không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Hành vi lén lút trộm cắp tài sản 03 lap top nhãn hiệu Sam sung, Lynovo, Sony, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Janus màu xanh biển số 86B8-487.36 và số tiền 6.850.000 đồng; có tổng trị giá 35.850.000 đồng của Phạm Ngọc Anh D và Phạm Thanh Q vào ngày 21/5/2022 tại cửa hàng Photocompy T, địa chỉ Khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Cáo trạng số 279/CT–VKS-DA ngày 29 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo D, sau khi phạm tội D đã ra tự thú và bị cáo Q đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Q.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Q có nhân thân xấu; Ngày 16/12/2016 bị Chủ tịch phường T, thành phố D (thị xã D cũ) quyết định số 743/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Phạm Thanh Q về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian 03 tháng; Ngày 8/6/2017 bị Tòa án nhân dân tthành phố D (thị xã D cũ) áp dụng biện pháp xử lý hành chính số 62/QĐ-TA đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 01 năm.

[7] Xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Trách nhiệm bồi thường dân sự: Bà Nguyễn Thị T là mẹ ruột của Phạm Thanh Q đã bồi thường cho chị Phạm Thị Thanh D, tổng số tiền 36.000.000 đồng. Bà D không yêu cầu bồi thường gì thêm, và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Phạm Thanh Q; tại phiên tòa bà Tài không yêu cầu các bị cáo bồi thường lại số trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Dream (không rõ biển số), Q khai mượn của bạn tên T (không rõ nhân thân, địa chỉ) nên tiếp tục xác minh, làm rõ, khi nào xác minh làm rõ sẽ tiến hành xử lý theo qui định.

[8] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành; nên không xem là đồng phạm có tổ chức.

[9] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Ngọc Anh D và Phạm Thanh Q phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Phạm Thanh Q 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2022.

Áp dụngkhoản 1 Điều 173; điểm i, s, r khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Anh D 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2022.

2. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Phạm Ngọc Anh D và Phạm Thanh Q, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tội trộm cắp tài sản số 291/2022/HS-ST

Số hiệu:291/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về