Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 37/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 37/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/HSST ngày 14 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2022/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Trọng B, sinh ngày 26/11/1991. Nơi sinh: Tỉnh T. Nơi cư trú: Số nhà 12, đường N, tổ 21-22, phường T1, thành phố T, tỉnh T. Nghề nghiệp: Công nhân kỹ thuật điện lực; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Trọng B1 và bà Nguyễn Thị M D; Chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 01/11/2021 cho đến nay.

2. Bùi Quang M, sinh ngày 07/12/1989. Nơi sinh: Tỉnh T. Nơi cư trú: Số nhà 107, đường L, tổ 6, phường K, thành phố T, tỉnh T. Nghề nghiệp: Nhân viên bưu điện; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Quang H và bà Trần Thị N1; Chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 01/11/2021 cho đến nay.

* Người làm chứng:

1. Anh Vũ Huỳnh Đ, sinh năm 1994. Trú tại: Thôn H1, xã T2, huyện K1, tỉnh T;

2. Anh Vũ Ngọc C, sinh năm 1991. Trú tại: Số nhà 573, đường L, tổ 15, phường Q, thành phố T, tỉnh T.

3. Anh Vũ Hồng S, sinh năm 1995. Trú tại: Số nhà 78, đường H2, tổ 03, phường L1, thành phố T, tỉnh T.

4. Anh Trần Nam H3, sinh năm 1991. Trú tại: Số nhà 18A, đường N, lô 10, phường B2, thành phố T, tỉnh T.

5. Anh Nguyễn Xuân Đ1, sinh năm 1991. Trú tại: Số nhà 26, tổ 03, phường T3, thành phố T, tỉnh T.

6. Chị Nguyễn Thị Thu H4, sinh năm 2003. Đăng ký hộ khẩu tại: Thôn 1 V, xã T4, huyện N2, tỉnh N3.

7. Chị Quảng Xuân N4, sinh năm 1999. Đăng ký hộ khẩu tại: Thôn D1, xã P, huyện T5, tỉnh B3.

8. Chị Hoàng Thị Đ2, sinh năm 2003. Đăng ký hộ khẩu tại: Xã Y, huyện B4, tỉnh H5.

9. Chị Lang Thị Khánh L2, sinh năm 2002. Đăng ký hộ khẩu tại: Bản M1 2, xã C1, huyện Q1, tỉnh N5.

10. Chị Trương Thị L3, sinh năm 1998. Đăng ký hộ khẩu tại: Thôn 7, xã G, huyện G1, tinh Q2.

11. Chị Tần Thị H6, sinh năm 1988. Đăng ký hộ khẩu tại: Thôn N6, xã L4, huyện V1, tỉnh Y1.

* Người chứng kiến: Anh Tô Bá T6, sinh năm 1988. Nơi cư trú: Số nhà 412, tổ 11, phường T3, thành phố T, tỉnh T.

(Các bị cáo có mặt, những người làm chứng, người chứng kiến đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 29/10/2021, Nguyễn Trọng B, Bùi Quang M, Vũ Huỳnh Đ, Vũ Ngọc C, Vũ Hồng S, Trần Nam H3 cùng nhau ăn uống ở quán lẩu lòng, tại đường L5, phường T7, thành phố T. Đến khoảng 22 giờ cả nhóm rủ nhau đến quán karaoke M2. B thuê phòng 204 để cả nhóm vào hát. B gọi điện rủ Nguyễn Xuân Đ1 là bạn của B đến quán chơi, sau đó B gọi 06 nhân viên nữ của quán karaoke gồm Nguyễn Thị Thu H4, Quảng Xuân N4, Hoàng Thị Đ2, Lang Thị Khánh L2, Trương Thị L3 và Tần Thị H6 vào rót bia, rượu phục vụ. Sau khi hát được một lúc thì B nảy sinh ý định mua ma túy để cả nhóm sử dụng trong khi hát karaoke. B đi xuống cửa quán thì gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi B không biết tên và địa chỉ và hỏi mua của người này 2.900.000 đồng tiền ma túy kẹo và nửa chỉ ma túy Ketamine. Người này đồng ý rồi lấy điện thoại ra gọi điện cho một người phụ nữ mang ma túy đến cho B. Sau khi gọi điện xong, người đàn ông hẹn B 15 phút sau xuống cửa quán lấy ma túy. B đồng ý và quay lại phòng 204 để hát. Khoảng 15 phút sau B xuống cửa quán mua ma túy từ chỗ người đàn ông đã hẹn. Khi xuống B thấy người đàn ông lúc trước đang đứng với một người phụ nữ khoảng 30 tuổi, B không biết tên, địa chỉ của người phụ nữ này. B đưa cho người đàn ông này 2.900.000 đồng, người đàn ông nhận tiền của B thì người phụ nữ đưa lại cho B 01 túi nilon trong suốt bên trong chứa 05 viên ma túy kẹo màu xanh và 01 túi nilon trong suốt bên trong chứa nửa chỉ ma túy Ketamine. B nhận ma túy rồi đi lên phòng hát 204, B để ma túy trên đĩa sứ màu trắng có sẵn ở trên mặt bàn số 3 trong phòng, B nói với cả nhóm "Đồ để dưới này nhé, ai chơi thì lấy”. B lấy 01 viên ma túy kẹo bẻ ½ viên để sử dụng, ½ viên còn lại B đưa cho C, C cầm ma túy B đưa cất vào túi quần đang mặc. Sau đó B đưa túi ma túy kẹo cho M và nói với M bẻ nhỏ ra cho mọi người sử dụng. M đồng ý, M lấy 03 viên ma túy kẹo bẻ đôi ra thành 6 phần rồi cho tất cả số ma túy vừa bẻ vào túi như cũ. Sau đó M để toàn bộ số ma túy này ở thành ghế bàn sofa số 6 rồi M quay lại bàn số 1 ngồi. Ngay lúc đó thì Nguyễn Xuân Đ1 đến, M lấy ½ viên ma túy kẹo đưa cho Đ1 và ½ viên ma túy kẹo đưa cho H3 để Đ1 và H3 sử dụng. B cầm túi Ketamine đưa cho M, bảo M xào Ke để mọi người sử dụng. M đồng ý cầm túi ma túy Ketamine đổ một ít ra đĩa sứ màu trắng có sẵn ở bàn rồi dùng bật lửa ga màu đỏ trên bàn hơ nóng đĩa sứ và lấy 01 thẻ cứng màu vàng, mặt thẻ có chữ LOUIS VUITTON ở túi quần của M ra để dằm nhỏ Ketamine, sau đó dùng 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng của M cuộn thành ống hút để mọi người sử dụng, số ma túy Ketamine còn lại M để ở thành ghế sofa bàn số 03. Khi M xào Ketamine xong để trên mặt bàn số 03 thì có B, C, Sơn và H3 lần lượt vào sử dụng Ketamine.

Đến 00 giờ 30 ngày 30/10/2021, Phòng Cảnh sát điều tra về ma túy Công an tỉnh T kết hợp với Công an phường T7, thành phố T, tỉnh T vào phòng 204, quán karaoke M2 kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện thu tại mặt bàn số 03 có 01 đĩa sứ màu trắng, trên đĩa sứ có chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong chất tinh thể màu trắng trên vào phong bì ký hiệu M1); 01 ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 thẻ cứng màu vàng, mặt thẻ có chữ LOUIS VUITTON; 01 bật lửa ga màu đỏ. Thu trên thành ghế sofa bàn số 03 có 01 túi nilon trong suốt, bên trong chứa chất dạng tinh thể trong suốt (niêm phong ký hiệu M2). Thu trên thành ghế sofa bàn số 6 có 01 túi nilon trong suốt bên trong chứa các cục dạng chất bột màu xanh (niêm phong ký hiệu M3). Trong quá trình kiểm tra, Vũ Ngọc C tự giác giao nộp cho tổ công tác từ trong túi quần bên phải phía trước của C đang mặc cục chất bột màu xanh (niêm phong ký hiệu M4). Tổ công tác quản lý của Nguyễn Trọng B 01 điện thoại Iphone màu vàng đã qua sử dụng; 01 ví giả da màu đen; 01 xe môtô nhãn hiệu Wave màu trắng, biển số 17B9- 438.16. Quản lý của Bùi Quang M 01 điện thoại Iphone màu vàng đã qua sử dụng; 01 xe môtô hiệu Honda Wave Anpha, màu đen - bạc, biển số 17B9 - 438.63. Quản lý 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Super Dream, màu nâu, biển số 17B7-051.35 của Vũ Huỳnh Đ.

Ngày 01/11/2021, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh T tiến hành khám xét chỗ ở của Nguyễn Trọng B và Bùi Quang M. Qua khám xét không phát hiện, thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 416/KLGDMT-PC09 ngày 01/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine có khối lượng 0,2385 gam. Mẫu M2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine có khối lượng 0,2934 gam. Mẫu M3 gửi giám định là ma túy, loại MDMA có khối lượng 0,8289 gam. Mẫu M4 gửi giám định là ma túy, loại MDMA có khối lượng 0,0893 gam.

Tại bản kết luận giám định số 415/KLGDMT-PC09 ngày 03/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu nước tiểu M1, M7 gửi giám định chứa sản phẩm chuyển hóa của hai loại ma túy là Ketamine và MDMA. Mẫu nước tiểu M2, M3 gửi giám định chứa sản phẩm chuyển hóa của ma túy, loại Ketamine. Mẫu nước tiều M5 gửi giám định chứa ma túy, loại Ketamine. Mẫu nước tiểu M4, M6, M8, M9, M10, M11, M12, M13 gửi giám định không chứa sản phẩm chuyển hóa của ma túy.

Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ngày 30/10/2021 và ngày 03/11/2021 của Bệnh viện tâm thần T kết luận: Nguyễn Trọng B, Bùi Quang M, Vũ Ngọc C, Vũ Hồng S, Nguyễn Xuân Đ1, Trần Nam H3, Vũ Huỳnh Đ, Nguyễn Thị Thu H4, Tần Thị H6, Trương Thị L3, Quảng Xuân N4, Lang Thị Khánh L2, Hoàng Thị Đ2 hiện tại chưa xác định được nghiện ma túy.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bản cáo trạng số 36/CT-VKSTPTB ngày 03 tháng 03 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị các cáo về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt:

- Đối với bị cáo Nguyễn Trọng B: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt từ 03 năm 09 tháng đến 04 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 01/11/2021.

- Đối với bị cáo Bùi Quang M: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt từ 03 năm 06 tháng đến 03 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 01/11/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước tờ tiền 10.000 đồng.

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy Ketamine còn lại và sốma túy MDMA còn lại; 01 thẻ cứng màu vàng; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 bật lửa ga màu đỏ.

- Trả lại cho bị cáo Bùi Quang M chiếc xe môtô hiệu Honda Wave Anpha, màu đen bạc, biển số 17B9 - 438.63; chiếc điện thoại Iphone màu vàng đã cũ.

* Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại hay có ý kiến gì.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là chứng cứ buộc tội lẫn nhau, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng M bằng:

- Biên bản sự việc.

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

- Biên bản kiểm tra hiện trường và sơ đồ hiện trường.

- Các biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu;

- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.

- Biên bản kiểm tra và quản lý điện thoại, xe máy.

- Kết luận giám định số 416/KLGDMT-PC09 ngày 01/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Kết luận giám định số 415/KLGDMT-PC09 ngày 03/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ngày 30/10/2021 và ngày 03/11/2021 của Bệnh viện tâm thần T.

- Biên bản ghi lời khai của người làm chứng, người chứng kiến.

Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 00 giờ 30 ngày 30/10/2021, Phòng Cảnh sát điều tra về ma túy Công an tỉnh T kết hợp với Công an phường T7, thành phố T tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng hát 204, quán karaoke M2, địa chỉ tại số 48, đường N7, phường T7, thành phố T, tỉnh T, phát hiện Nguyễn Trọng B, Bùi Quang M có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho Nguyễn Trọng B, Vũ Ngọc C, Vũ Hồng S, Trần Nam H3, Nguyễn Xuân Đ1. Tổ công tác đã quản lý 01 đĩa sứ màu trắng trên đĩa có chứa ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,2385 gam; 01 túi nilon trong suốt, bên trong có chứa ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,2934 gam; 01 túi nilon trong suốt, bên trong có chứa ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,8289 gam; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 thẻ cứng màu vàng; 01 bật lửa ga màu đỏ. Quá trình kiểm tra hành chính Vũ Ngọc C tự giác giao nộp 01 cục ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,0893 gam.

Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Điều 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý 1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

...

b) Đối với 02 người trở lên;

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả, hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước. Việc sử dụng trái phép chất ma túy và làm cho con người nghiện chất ma túy tác động rất xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội nói C, của người nghiện ma túy nói riêng. Ma túy làm suy thoái đạo đức, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, trí tuệ, thể chất của con người, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Các bị cáo là người đã trưởng thành nhận biết rõ tác hại của ma túy, biết rõ hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự là người có nhân thân tốt. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo B có bố đẻ là thương binh nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét vai trò các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm, Nguyễn Trọng B là người khởi xướng, mua 02 loại ma túy để cho cả nhóm sử dụng nên giữ vai trò chính. Bùi Quang M là người chia nhỏ ma túy MDMA và xào Ketamine để cho người khác sử dụng, là đồng phạm giúp sức, giữ vai trò thứ hai.

[6] Về hình phạt:

[6.1] Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm M với hành vi phạm tội của các bị cáo, cần phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên các bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[6.2] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo phạm tội lần đầu, tổ chức sử dụng ma túy không nhằm mục đích kiếm lời, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Số Ketamine còn lại có khối lượng 0,4113 gam, số MDMA còn lại có khối lượng 0,7077 gam đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành; 01 thẻ cứng màu vàng; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 bật lửa ga màu đỏ là công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc xe môtô hiệu Honda Wave Anpha, màu đen bạc, biển số 17B9 - 438.63; chiếc điện thoại Iphone màu vàng đã cũ đều là tài sản của bị cáo Bùi Quang M, không liên quan đến hành vi phạm tội, trả lại cho bị cáo.

- Tờ tiền 10.000 đồng các bị cáo dùng làm ống hình trụ tròn để sử dụng ma túy, tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Nguyễn Trọng B khai mua của một người đàn ông và người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực trước cửa quán karaoke M2 nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý

[9] Về các vấn đề khác:

- Đối với Vũ Ngọc C có hành vi cất giấu 0,0893 gam ma túy, loại MDMA nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Do khối lượng ma túy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Vũ Ngọc C có nhân thân tốt, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị kết án lần nào nên cơ quan Điều tra Công an tỉnh T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền.

- Quá trình điều tra xác định các đối tượng Vũ Hồng S, Trần Nam H3, Nguyễn Xuân Đ1 đã có hành vi sử dụng ma túy tại phòng hát 204 quán karaoke M2, cơ quan Điều tra Công an tỉnh T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền.

- Đối với Vũ Huỳnh Đ, Nguyễn Thị Thu H4, Quảng Xuân N4, Hoàng Thị Đ2, Lang Thị Khánh L2, Trương Thị L3, Tần Thị H6 không sử dụng ma túy nên cơ quan Điều tra không có hình thức xử lý.

- Đối với quán karaoke M2 và người quản lý quán karaoke không biết việc các đối tượng tổ chức sử dụng ma túy trong phòng hát 204 của quán, khi sắp hết giờ quản lý đã yêu cầu khách ra về thì thấy trong phòng 204 khách có biểu hiện sử dụng ma túy trong phòng nên đã báo cơ quan Công an. Vì vậy cơ quan Điều tra không xử lý.

- Đối với 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Super Dream, màu nâu, biển số 17B7-051.35 là tài sản hợp pháp của Vũ Huỳnh Đ, cơ quan Điều tra Công an tỉnh T đã trả lại xe cho anh Đức theo quy định, anh Đức đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

- Đối với 01 xe môtô nhãn hiệu Wave màu trắng, biển số 17B9-438.16; 01 điện thoại Iphone màu vàng đã qua sử dụng; 01 ví giả da màu đen đều là tài sản hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng B, không liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo đề nghị xin lại tài sản và ủy quyền cho mẹ bị cáo là bà Nguyễn Thị M D nhận lại tài sản. Cơ quan Điều tra đã trả lại toàn bộ số tài sản trên cho bà Diến.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trọng B và Bùi Quang M phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

- Đối với bị cáo Nguyễn Trọng B: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 01/11/2021.

- Đối với bị cáo Bùi Quang M: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 01/11/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước tờ tiền 10.000 đồng.

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy Ketamine còn lại có khối lượng 0,4113 gam, số ma túy MDMA còn lại có khối lượng 0,7077 gam; 01 thẻ cứng màu vàng trên mặt thẻ có chữ LOUIS VUITTON; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 bật lửa ga màu đỏ.

- Trả lại bị cáo Bùi Quang M chiếc xe môtô hiệu Honda Wave Anpha, màu đen bạc, biển số 17B9 - 438.63; chiếc điện thoại Iphone màu vàng đã cũ.

(Vật chứng Công an thành phố T đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 04/3/2022).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31/3/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 37/2022/HS-ST

Số hiệu:37/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về