TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 21/02/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 03/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Lê Quốc K; Sinh ngày: 18/5/1969 tại thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ dân phố 2, phường G, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Hưu trí; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Minh K1 và bà Nguyễn Thị N; Có vợ: chị Hoàng Thị D và 01 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 27/11/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Bản án số 74/2018/HS-ST, ngày 08/02/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích); Nhân thân: Ngày 26/12/2016 bị Công an thành phố Hà Tĩnh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 1976/QĐ-XPHC (Nộp phạt ngày 02/4/2018); Ngày 10/01/2017 bị Công an huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 346/QĐ-XPHC; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2022 đến nay - Có mặt.
2. Thái Minh P; Sinh ngày: 28/02/1986 tại huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ dân phố 4, phường P, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thái Xuân T (đã chết) và bà Trần Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: 01 (Ngày 29/10/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 63/2004/HSPT, chấp hành xong án phạt tù ngày 20/4/2005, chưa thi hành phần bồi thường dân sự theo quyết định của bản án, chưa được xóa án tích); Nhân thân: Ngày 11/10/2011 bị chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thời hạn 24 tháng về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định số 3294/QĐ- UB(NC), chấp hành xong ngày 24/04/2014); Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2022 đến nay - Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Lê Văn C; Sinh năm 1991; Trú tại: Thôn T, xã B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do – Vắng mặt
2. Chị Nguyễn Thị T; Sinh năm 1991; Trú tại: Thôn V, phường L, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do – Vắng mặt
Người chứng kiến: Ông Võ Đức D, sinh năm 1950; Trú tại: Tổ dân phố 2, phường G, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh– Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 23 phút ngày 18/5/2022, Lê Quốc K sử dụng Zalo “Quoc Khanh” gọi điện liên lạc đến tài khoản Zalo “Phung Chu” của Thái Minh P nói hôm nay sinh nhật của K hỏi P có ma túy không thì mang đến nhà K chơi cho vui thì P đồng ý. Trước đó, P được một người bạn tên Tài (người ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An không rõ họ tên, địa chỉ) cho một ít ma túy dạng đá để sử dụng, Thái Minh P đã sử dụng một ít, còn lại một ít để lại trong bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Thái Minh P cất giấu số ma túy đá và dụng cụ sử dụng ma túy đá trong người rồi rủ Nguyễn Thị T (đang mang thai 5 tháng tuổi) là bạn gái của P đi cùng để dự sinh nhật của K thì T đồng ý. Cả 2 đón xe taxi (không nhớ rõ hãng xe) đi đến số nhà 24 ngõ 13 đường O, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh của Lê Quốc K. Lê Văn C được K mời đến để uống rượu. Khi đến nhà K, P vào ngồi uống rượu với K và Lê Văn C, còn T ngồi chơi ở trong phòng khách. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì K, C và P vào phòng khách ngồi uống nước nói chuyện, K hỏi P có tí chi đó không (ý của K hỏi có ma túy dạng đá đó không) thì P nói có tí sẵn nơi cóng đây, rồi P lấy chiếc cóng có sẵn ma túy dạng đá bên trong túi áo đem ra để trên bàn rồi P, K và C sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy đá một lúc, Lê Quốc K lấy 06 viên ma túy hồng phiến được người bạn nghiện (K không nhớ rõ thông tin địa chỉ cụ thể) cho từ trước mang ra bỏ trên bàn uống nước và nói ai sử dụng thì sử dụng. Lúc này, Nguyễn Thị T lấy hai viên hồng phiến sử dụng, còn K, P và C tiếp tục sử dụng ma túy đá. Đến khoảng 00 giờ 02 phút ngày 19/5/2022, khi K, P, C và T đang sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh kiểm tra, phát hiện thu giữ trên bàn uống nước tại phòng khách 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy dạng đá, bên trong cóng thủy tinh có chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Ký hiệu M1); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy hồng phiến và 01 mẩu giấy bạc kích thước 1,4cm x 5,8cm trên bề mặt có dính chất nhựa màu đen nghi là ma túy (Ký hiệu M2); 01 mẫu giấy bạc kích thước 04cm x 06cm bọc 04 viên nén hình tròn màu hồng nghi là ma túy (Ký hiệu M3) và một số vật chứng khác có liên quan. Lê Quốc K khai nhận là người cung cấp ma túy hồng phiến, Thái Minh P khai nhận là người cung cấp ma túy đá cho mọi người sử dụng.
Tại các Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy số 129, 130, 131, 132 ngày 19/5/2022 của Trung tâm chữa bệnh giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Hà Tĩnh xác định Lê Quốc K, Thái Minh P, Lê Văn C, Nguyễn Thị T có sử dụng ma túy, tên loại ma túy sử dụng: Methamphetamine (MET).
Theo bản Kết luận giám định số 554/KL-KTHS ngày 24/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Chất tinh thể màu trắng có bên trong cóng thủy tinh của bộ sử dụng ma túy (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,1344 gam. Chất nhựa màu đen dính trên bề mặt mẫu giấy bạc, kích thước (1,4x5,8)cm (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,0161 gam. 04 viên nén hình tròn màu hồng bọc trong mẫu giấy bạc, kích thước (04x06)cm (ký hiệu M3) gửi giám định là ma túy Methamphetamine, có khối lượng: 0,3709 gam. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II.C, STT 323, Nghị định số 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về các Kết luận nêu trên của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh và Trung tâm chữa bệnh giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Hà Tĩnh.
Bản cáo trạng số 08/CT-VKS-TPHT ngày 06/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố bị cáo Lê Quốc K về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, d khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự và bị cáo Thái Minh P về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 255, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Lê Quốc K từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 19/5/2022; Áp dụng khoản 1 Điều 255, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Thái Minh P từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 19/5/2022; Hình phạt bổ sung: Không; Ngoài ra còn đề nghị về xử lý vật chứng.
Tại phần tranh luận, các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 00 giờ 02 phút ngày 19/5/2022, tại số nhà 24 ngõ 13 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, Lê Quốc K và Thái Minh P đang có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho người khác. Trong đó, Lê Quốc K tổ chức cho Nguyễn Thị T sử dụng trái phép chất ma túy; Lê Quốc K và Thái Minh P đang tổ chức cho Lê Văn C sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Công an phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh phát hiện bắt quả tang, thu giữ 0,5214 gam Methamphetamine mà Lê Quốc K, Thái Minh P, Nguyễn Thị T và Lê Văn C đang sử dụng. Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự. Lê Quốc K tổ chức cho Nguyễn Thị T (đang có thai) và cùng với P tổ chức cho Lê Văn C sử dụng ma túy nên K phải chịu các tình tiết định khung tăng nặng “đối với 02 người trở lên” và “đối với phụ nữ mà biết là có thai” quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, trong đó: Lê Quốc K là người khởi xướng, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội nên giữ vai trò chính, Thái Minh P là người cung cấp ma túy nên giữ vai trò đồng phạm thực hành tích cực. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, đều đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo K “có thành tích xuất sắc trong chiến đấu” được tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang Hạng Nhất, Hạng Nhì, Hạng Ba và có bố mẹ đều là người có công với cách mạng (bố được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ Hạng Nhì, mẹ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ Hạng Ba) nên được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo thu nhập thấp, hiện đang bị tạm giam nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền.
[5] Về xử lý vật chứng: 0,2832 gam Methamphetamine (đã trừ mẫu giám định) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm:
01 cóng thủy tinh, 01 nắp chai nhựa hình tròn màu xanh có 02 lỗ, 01 chai nhựa màu xanh và 01 ống hút nhựa màu vàng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy hồng phiến gồm 01 chai nhựa trong suốt và 01 chiếc phễu bằng kim loại; 01 mẫu giấy bạc kích thước 1,4cmx5,8cm; 01 mẫu giấy bạc kích thước 4cmx6cm; 01 bật lửa ga màu xanh có gắn vòi bằng kim loại là công cụ, phương tiện phạm tội, không còn giá trị, theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3s màu tím than của Lê Quốc K và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro màu vàng của Thái Minh P là công cụ phương tiện phạm tội, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.
[6] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề nghị là phù hợp.
[7] Theo lời khai của Lê Quốc K và Thái Minh P thì số ma túy trên được bạn cho để sử dụng nhưng đều không có thông tin đầy đủ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý. Đối với Nguyễn Thị T và Lê Văn C có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy do Lê Quốc K và Thái Minh P tổ chức nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Thị T và Lê Văn C là phù hợp.
[8] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Lê Quốc K và Thái Minh P phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm b, d khoản 2 Điều 255, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Lê Quốc K 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 19/5/2022;
Căn cứ khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Thái Minh P 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 19/5/2022.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Tịch thu và tiêu hủy 0,2832 gam Methamphetamine (đã trừ mẫu giám định); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 cóng thủy tinh, 01 nắp chai nhựa hình tròn màu xanh có 02 lỗ, 01 chai nhựa màu xanh và 01 ống hút nhựa màu vàng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy hồng phiến gồm 01 chai nhựa trong suốt và 01 chiếc phễu bằng kim loại;
01 mẫu giấy bạc kích thước 1,4cmx5,8cm; 01 mẫu giấy bạc kích thước 4cmx6cm; 01 bật lửa ga màu xanh có gắn vòi bằng kim loại;
- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3s màu tím than của Lê Quốc K và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro màu vàng của Thái Minh P.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Lê Quốc K và Thái Minh P mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST
Số hiệu: | 07/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về