Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94a/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 94A/2022/HS-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/HSST-QĐ ngày 25/5/2022; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Văn D (tên gọi khác: Không), sinh ngày 26 tháng 9 năm 1985 tại xã MB, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 3, phường CS, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Trần Văn C (đã chết) và bà Bùi Thị B, sinh năm 1946, bị cáo có vợ là Lò Thanh N, sinh năm 1991 và có 02 con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018); Tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05 tháng 01 năm 2022 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 15 phút ngày 05/01/2022, tổ công tác công an phường QT, thành phố Sơn La phối hợp với Công an phường CC, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 14, phường QT, thành phố Sơn La, phát hiện và bắt quả tang Trần Văn D đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn D.

Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy màu trắng có in các dòng chữ bên trong có chứa cục, bột màu trắng (Trần Văn D lấy từ trong túi áo khoác bên phải phía trước đang mặc ra giao nộp).

Kết luận giám định số 228 ngày 07/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,23 gam; loại Heroine.

Quá trình điều tra bị cáo Trần Văn D khai nhận như sau: Do bản thân nghiện ma túy, khoảng 16 giờ 45 phut ngày 05/01/2022, Trần Văn D đi bộ từ nơi làm việc đến khu vực Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Sơn La (cùng thuộc tổ 14, phường QT, thành phố Sơn La) để tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây, D gặp và mua được của một người nam giới (D không biết họ tên, tuổi và địa chỉ) một gói Heroine với số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Sau đó, D cất gói ma túy vừa mua được vào túi áo khoác bên phải phía trước đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác công an phường QT phối hợp với công an phường CC, thành phố Sơn La phát hiện bắt quả tang và thu giữ cùng vật chứng.

Đối với nguồn gốc số ma túy trong vụ án, bị cáo Trần Văn D khai mua của một người nam giới (không biết họ tên, tuổi và địa chỉ) vào ngày 05/01/2022 tại khu vực Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Sơn La (thuộc tổ 14, phường QT, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La). Ngoài lời khai của bị cáo không còn nguồn tài liệu chứng cứ nào khác. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để tiếp tục điều tra xác minh.

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 106/CT-VKSTP ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Trần Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Trần Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Trần Văn D từ 13 đến 16 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 (một) mảnh giấy màu trắng, trên bề mặt có các dòng chữ; mẫu lưu kho ký hiệu D1=0,16 gam (là ma túy, loại Heroine).

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 05/01/2022, tổ công tác Công an phường QT, thành phố Sơn La phối hợp với Công an phường CC, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 14, phường QT, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, phát hiện, bắt quả tang Trần Văn D đang cất giữ trái phép 0,23 gam chất nghi là Heroine nhằm mục đích sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội cũng như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

- Biên bản khám xét, thu giữ vật chứng - Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại.

- Kết luận giám định số 228 ngày 07/01/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Trần Văn D phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng 0,23 gam Heroine, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, gia đình là hộ cận nghèo, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai mua của một người nam giới không quen biết vào ngày 05/01/2022 tại khu vực trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Sơn La thuộc tổ 14, phường QT, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án. Do đó buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma tuý bị thu giữ.

[6] Vật chứng vụ án:

Đối với 0,16 gam Heroine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, vận chuyển, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy một mặt có màu trắng, trên bề mặt có các dòng chữ là vật dùng để cất giấu ma túy, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[7] Về án phí: Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn D 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam (ngày 05/01/2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 (một) mảnh giấy một mặt có màu trắng, trên bề mặt có các dòng chữ; mẫu lưu kho ký hiệu D1=0,16 gam (là ma túy, loại Heroine) (đã được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/4/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Trần Văn D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Văn D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 14/6/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94a/2022/HS-ST

Số hiệu:94a/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về