Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 86/2021/HS-ST NGÀY 01/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2021//TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:86/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Đức H, sinh ngày 15-6-1970, tại: Hyện Đ, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ1, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đăng Q, sinh năm 1943 (được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất) và bà Bùi Thị R, sinh năm 1947; có vợ là Nguyễn Thị L và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 23/1996/HSST ngày 10-7-1996 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xử phạt Lê Đức H 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” (chấp hành xong bản án ngày 03-2-1997). Bản án số 2326/2000/HSPT ngày 23-11-2000 Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt Lê Đức H 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” (chấp hành xong bản án ngày 20-5-2004). Bản án sô 22/2005/HSST ngày 23- 6-2005, Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xử phạt Lê Đức H 15 năm tù về hai tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 28-4-2015, chấp hành xong hình phạt bổ sung và án phí ngày 30-9-2016)”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23-4- 2021 đến ngày 26-4-2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1965; vắng mặt Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1978; vắng mặt Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23-4-2021, bị cáo Lê Đức Huy điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS, màu đỏ đen, biển kiểm soát 17B1 - 072.84 đi đến xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình mục đích mua ma túy về sử dụng. Tại xã A, bị cáo H gặp và mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ, tên, địa chỉ cụ thể) 02 gói ma túy loại Hêrôin được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo Huy cho 02 gói ma túy trên vào trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long, cất giấu tại túi quần bên trái đang mặc và điều khiển xe đi tìm chỗ sử dụng. Đến 12 giờ 50 phút cùng ngày, bị cáo Huy đi đến địa phận thôn Đ, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thì bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ tại túi quần bên trái bị cáo Huy đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 02 gói giấy trắng có dòng kẻ, mở kiểm tra bên trong 02 gói đều có chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo Huy khai nhận là ma túy, loại Hêrôin mua về để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà đã niêm phong 02 gói ma tuý trên trước sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn V và anh Nguyễn Ngọc H. Ngoài ra Công an huyện Hưng Hà còn thu giữ, quản lý của bị cáo Huy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, có bàn phím và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 17B1-042.84. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Đức Huy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà không thu giữ đồ vật tài liệu gì.

Tại Bản kết luận giám định số 131/KLGĐMT - PC09 ngày 26-4-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,1701 gam (Không phẩy một nghìn bảy trăm linh một gam). Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 86/CT-VKSHH ngày 05-8-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Lê Đức H ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa;

Bị cáo Lê Đức H khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trong bản Cáo trạng. Cơ quan Công an huyện Hưng Hà kiểm tra, thu giữ của bị cáo 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 02 gói giấy trắng có dòng kẻ đều có chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy, loại Heroine, do bị cáo mua để sử dụng cho bản thân; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, có bàn phím là của bị cáo dùng để liên lạc với bạn bè, người thân và 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave RS, màu đỏ đen, BKS: 17B1-024.84 là tài sản của bị cáo, dùng làm phương tiện đi lại của gia đình bị cáo. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử (Viết tắt là HĐXX) xem xét cho bị cáo nhận lại chiếc điện thoại và xe mô tô.

Kiểm sát viên - Đại diện viện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lê Đức H như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Lê Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo Lê Đức H từ 01năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 23-4-2021; không áp dụng hình phạt bổ sung đối bị cáo; áp dụng Điều 47 của BLHS và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (viết tắt là BLTTHS): Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Lê Đức H là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 131/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; trả cho bị cáo H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, có bàn phím đã qua sử dụng và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 17B1-042.84 đã qua sử dụng; bị cáo Huy phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lê Đức H không tranh luận gì đối với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong BLTTHS. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những người làm chứng ông Nguyễn Văn V và anh Nguyễn Ngọc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra, ông V và anh H đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Vì vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo Lê Đức H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 13 giờ 00 phút ngày 23-4-2021 tại Trụ trở Ủy ban nhân dân xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 14 giờ 25 phút ngày 23-4-2021 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Bản kết luận định giám định số 131/KLGĐMT-PC09 ngày 26-4-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của những người làm chứng là chứng ông Nguyễn Văn V và anh Nguyễn Ngọc H. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 50 phút ngày 23-4-2021 tại đường quốc lộ 39 thuộc địa phận thôn Đ, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, bị cáo Lê Đức H có hành vi tàng trữ trái phép 0,1701 gam ma tuý, loại Hêrôin, mục đích để sử dụng, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Đức H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Lê Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là H toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

………………………..

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Lê Đức H thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, hủy hoại trực tiếp sức khỏe của chính bản thân bị cáo và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; Bị cáo không bị bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự; trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[5] Bản thân bị cáo nhận thức rất rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng...trái phép chất ma túy nhưng do nghiện ma túy, để thỏa mãn nhu cầu bản thân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng. Bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử về hình sự và phải chấp hành hình phạt tù, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, không chịu tu dưỡng, cải tạo để trở thành công dân tốt. Do đó, cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[6] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà quản lý của bị cáo Lê Đức Huy sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 131/KLGĐMT- PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, có bàn phím đã qua sử dụng và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 17B1-042.84 đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định những tài sản trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Căn cứ vào lời khai của bị cáo Lê Đức Huy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định con người cụ thể đã bán ma túy cho bị cáo Huy vào ngày 23-4-2021. Ngoài lời khai của bị cáo Huy không có tài liệu nào khác xác định con người cụ thể đã bán ma túy cho bị cáo H nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[9] Về án phí: Bị cáo Lê Đức H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Đức H 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 23-4-2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

3.1. Tịch thu tiêu huỷ: 0,1195 gam (Không phẩy một nghìn một trăm chín mươi lăm gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu giữ của Lê Đức Huy trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 131/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

3.2. Trả cho bị cáo Lê Đức Huy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, có bàn phím đã qua sử dụng và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 17B1-042.84 đã qua sử dụng.

Vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05-8-2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Đức H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Đức H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2021/HS-ST

Số hiệu:86/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về