Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 85/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 85/2021/HS-ST NGÀY 01/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2021//TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Văn L, sinh ngày 01-3-1974, tại: Huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện Hưng Hà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Trọng K, sinh năm 1933 và bà Trần Thị V (đã chết); bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án: Bản án số 07/2013/HSST ngày 31-01-2013, của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt Đỗ Văn L 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28-11-2018, chấp hành xong án phí, tiền phạt sung công quỹ nhà nước ngày 24-8-2018; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30-5-2000, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09-6-2021 đến ngày 11-6-2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn C, sinh năm 1961; vắng mặt Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, thị trấn H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

2. Ông Vũ Văn T, sinh năm 1968; vắng mặt

3. Anh Vũ Quang P, sinh năm 1975; vắng mặt Đều cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

4. Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1981; vắng mặt Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, thị trấn H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 10 giờ 30 phút ngày 09-6-2021, tại trục đường Quốc lộ 39A trước cửa hiệu thuốc Bình Minh thuộc tổ dân phố Thị An - Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; tổ công tác Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang bị cáo Đỗ Văn L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Khi kiểm tra, bị cáo L đã thả 02 gói giấy tráng kim từ lòng bàn tay trái xuống đường cạnh chỗ bị cáo L đang đứng, tổ công tác yêu cầu bị cáo L nhặt lên, mở kiểm tra bên trong cả hai gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. Bị cáo L khai nhận đó là ma túy, loại Hêrôin, do bị cáo mua của một người phụ nữ khoảng 60 tuổi (không rõ họ, tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực cổng chợ thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ và niêm phong 02 gói ma túy trên trước sự chứng kiến của ông Trần Văn C, ông Vũ Văn T, anh Vũ Quang P và anh Hoàng Văn D. Khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo Đỗ Văn L không thu giữ tài sản, đồ vật gì.

Tại Bản kết luận giám định số 224/KLGĐMT - PC09 ngày 11-6-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật chứa trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1613 gam (Không phẩy một nghìn sáu trăm mười ba gam). Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 87/CT-VKSHH ngày 09-8-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Đỗ Văn L ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa;

Bị cáo Đỗ Văn L khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 10 giờ ngày 09-6-2021, bị cáo đi một mình từ nhà lên thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực chợ thị trấn Hưng Nhân, bị cáo gặp một người phụ nữ khoảng 60 tuổi, không biết họ, tên, địa chỉ. Qua nói chuyện, bị cáo biết người này bán ma túy Hêrôin nên bị cáo đặt vấn đề mua ma túy và đưa cho người phụ nữ 200.000 đồng, người phụ nữ đã cầm tiền và đưa cho bị cáo 02 gói giấy tráng kim màu trắng bạc, bị cáo biết trong 02 gói đó đều có chứa ma túy loại Herôin nên đã cầm trong lòng bàn tay trái và đi về nhà để sử dụng. Bị cáo đi đến trước cửa hiệu thuốc Bình Minh thuộc tổ dân phố Thị An - Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thì bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình kiểm tra, thu giữ của bị cáo 02 gói giấy tráng kim màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy loại Herôin do bị cáo vừa mua để sử dụng. Sau khi kiểm tra, Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành niêm phong 02 gói ma túy trên.

Kiểm sát viên - Đại diện viện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đỗ Văn L như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (Viết tắt là HĐXX): Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 50 và Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo Đỗ Văn L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 09-6-2021; không áp dụng hình phạt bổ sung đối bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Đỗ Văn L là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 224/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Đỗ Văn L không tranh luận gì đối với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những người làm chứng là ông Trần Văn C, ông Vũ Văn T, anh Vũ Quang P và anh Hoàng Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra, ông C, ông T, anh P và anh D đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Vì vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo Đỗ Văn L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 11 giờ ngày 09-6-2021, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 12 giờ 45 phút ngày 09-6-2021 tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Bản kết luận giám định số 224/KLGĐMT - PC09 ngày 11-6-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của những người làm chứng là ông Trần Văn C, ông Vũ Văn T, anh Vũ Quang P và anh Hoàng Văn D. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 30 phút ngày 09-6-2021, tại trục đường Quốc lộ 39A trước cửa hiệu thuốc Bình Minh thuộc tổ dân phố Thị An - Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo Đỗ Văn L có hành vi tàng trữ trái phép 0,1613 gam ma tuý, loại Hêrôin, mục đích để sử dụng, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Văn L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Đỗ Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

………………………..

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Đỗ Văn L thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, hủy hoại trực tiếp sức khỏe của chính bản thân bị cáo và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; Bị cáo có tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nên bị áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS; trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[5] Bản thân bị cáo nhận thức rất rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng...trái phép chất ma túy nhưng do nghiện ma túy, để thỏa mãn nhu cầu bản thân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân xấu, do đó cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[6] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà quản lý của bị cáo Đỗ Văn L sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 224/KLGĐMT- PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Căn Căn cứ vào lời khai của bị cáo Đỗ Văn L, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định con người cụ thể đã bán ma túy cho bị cáo L vào ngày 09-6-2021. Ngoài lời khai của bị cáo L không có tài liệu nào khác xác định con người cụ thể đã bán ma túy cho bị cáo L nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[9] Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn L 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 09-6-2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ: 0,1442 gam (Không phẩy một nghìn bốn trăm bốn mươi hai gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu giữ của Đỗ Văn L trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 224/KLGĐMT - PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10-8-2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đỗ Văn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đỗ Văn L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 85/2021/HS-ST

Số hiệu:85/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về