TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 84/2022/HS-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2022/TLST- HS ngày 01 tháng 7 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Lò Văn K. Tên gọi khác: không. Sinh ngày 07/8/1991 tại huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Bản B, xã C, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Giới V: Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lò Văn K, sinh năm 1970 và bà Lò Thị B, sinh năm 1972; Bị cáo chưa có vợ con.
Tiền án: Tại bản án số 116/2014 - HSST ngày 11/8/2014 bị Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xử phạt Lò Văn K 09 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản (chưa chấp hành án phần bồi thường dân sự).
Tiền sự: không.
Nhân thân: Tại bản án số 110/2018 - HSST ngày 15/8/2018 bị Toà án nhân dân T phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt Lò Văn K 24 tháng tù về Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành án xong ngày 19/02/2020).
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Bùi Văn T, sinh năm: 1987. Địa chỉ: A huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
Vắng mặt.
- Ông Bùi Văn V, sinh năm: 1956. Địa chỉ: A huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ tháng 2/2022, Lò Văn K làm nghề lái xe ô tô thuê cho Bùi Văn T, sinh năm 1987 trú tại A huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Đến khoảng 06 giờ ngày 25/3/2022 T giao xe ô tô đầu kéo hiệu HYUNDAI biển kiểm soát 26C - 036.66 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 26R – 007.32 cho K điều khiển đi giao hàng nông sản sắn khô ở T phố Hà Nội. Sau đó K điều khiển xe ô tô đón phụ xe là Quàng Văn Khải, sinh năm 2002, trú tại bản Tre, xã Cg, huyện Sông Mã đi từ huyện Sông Mã đến T phố Hà Nội để giao hàng. Do đi đường dài, K nảy sinh ý định mua ma túy sử dụng cho tỉnh táo nên đã gọi điện cho người đàn ông tên T tự giới thiệu nhà ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, là người K mới quen khoảng một tuần (K không biết địa chỉ cụ thể) đặt vấn đề mua 10 viên Hồng phiến. T đồng ý bán 10 viên với giá 700.000VNĐ và hẹn giao ma túy ở khu vực cổng trường tiểu học thuộc bản Mạt, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn. K đồng ý. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày K đi đến điểm hẹn, dừng xe rồi gọi điện thoại cho Tuấn. Khoảng 10 phút sau có một người nam giới đeo khẩu trang đến mở cửa xe ô tô đưa cho K 01 gói giấy bạc chứa 10 viên Hồng phiến và K đưa 700.000VNĐ cho người đàn ông rồi người đó đi đâu K không biết. Mua được Hồng phiến, K cất tại hốc quạt gió điều hòa trên táp lô cabin mục đích để sử dụng dần rồi tiếp tục điều khiển xe đi về Hà Nội. Khi đi đến khu vực tiểu khu 2, thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn thì bị tổ công tác Công an huyện Mai Sơn dừng xe kiểm tra phát hiện tại hốc điều hòa trên táp lô cabin của xe ô tô có 01 gói giấy bạc bên trong chứa các viên nén màu hồng một mặt mỗi viên đều có ký hiệu “WY” nghi là ma túy tổng hợp. Kiểm tra trên người Lò Văn K và Quàng Văn Kh không phát hiện chất nghi là ma túy. Lò Văn K khai nhận 01 gói đó là Hồng phiến của K, tàng trữ mục đích để sử dụng, Quàng Văn Kh không biết, không liên quan đến số Hồng phiến này. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lò Văn K và thu giữ, niêm phong vật chứng nêu trên. Ngoài ra còn tạm giữ của K: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, 01 điện thoại di động hiệu NOKIA kèm theo 02 sim điện thoại di động (tại cabin xe ô tô) và 01 xe ô tô đầu kéo hiệu HYUNDAI biển kiểm soát 26C - 036.66 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 26R - 007.32.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn T lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng 10 viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn K có tổng khối lượng 0,96 gam, lấy toàn bộ làm mẫu ký hiệu M trưng cầu giám định.
Tại bản kết luận giám định số 540/KLMT ngày 27/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:
“Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma tuý; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,96 gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,96 gam; Loại Methamphetamine ” Tại bản cáo trạng số 64/CT-VKSMS ngày 30/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Lò Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, xử phạt bị cáo Lò Văn K từ 23 tháng đến 26 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 0,63 gam methamphetamine, vỏ phong bì cũ gửi giám định được niêm phong; Vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon, giấy bạc gói ma túy ban đầu được niêm phong.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động IPHONE kèm 01 sim Trả cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia kèm 01 sim.
Chấp nhận Cơ quan điều tra trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bùi Văn T, Bùi Văn V xe ô tô đầu kéo hiệu HYUNDAI biển kiểm soát 26C - 036.66 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 26R - 007.32.
Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo Lò Văn K tự bào chữa: Nhất trí với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên, T viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được tống đạt hợp lệ giấy triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa, tại hồ sơ đã có đầy đủ lời khai của người liên quan, họ đã nhận lại tài sản liên quan trong vụ án và không có yêu cầu dân sự, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án nên HĐXX tiếp tục phiên tòa.
[2] Về tình tiết định tội: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn K khai nhận do bản thân nghiện chất ma túy, ngày 25/3/2022 bị cáo đã mua 10 viên hồng phiến với giá 700.000VNĐ nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân, cùng ngày khi đang trên đường về nhà đã bị Công an huyện Mai Sơn phát hiện, bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,96 gam Methamphetamine, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm quả tang lập hồi 11 giờ 20 phút ngày 25/03/2022 của Công an huyện Mai Sơn; kết luận giám định số 540/KLMT ngày 27/03/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,96 gam, loại Methamphetamine. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận số ma túy thu giữ trong vụ án được cân tịnh dưới sự có mặt của bị cáo. Với các chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Lò Văn K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) ....
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...” [3] Xét về tính chất vụ án: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, bị cáo nhận thức rõ được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình mua trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm gia tăng tình trạng mua bán, sử dụng trái phép các chất ma túy, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng với về chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy đã bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích). Bị cáo có một tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS do bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích do bị cáo chưa thực hiện việc bồi thường dân sự tại bản án số 110/2018 - HSST ngày 15/8/2018 của Toà án nhân dân T phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về việc đã làm nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phần nào đối với bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh bị cáo không có tài sản gì đáng giá, cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định và những vật không có giá trị sử dụng: 0,63 gam methamphetamine, vỏ phong bì cũ gửi giám định được niêm phong; Vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon, giấy bạc gói ma túy ban đầu được niêm phong.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội:
01 điện thoại di động IPHONE kèm 01 sim Trả cho bị cáo tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia kèm 01 sim.
Đối với xe ô tô đầu kéo hiệu HYUNDAI biển kiểm soát 26C - 036.66 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 26R - 007.32. Quá trình điều tra xác định chiếc xe ô tô trên là tài sản hợp pháp của Bùi Văn T, sinh năm 1987 trú tại bản Anh Dũng, xã Cg, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La còn chiếc rơ moóc biển kiểm soát 26R- 007.32 là tài sản hợp pháp của Bùi Văn V, sinh năm 1956, trú tại bản Anh Dũng, xã Cg, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La (bố đẻ của Bùi Văn T). Bùi Văn T và Bùi Văn V không biết Lò Văn K sử dụng xe vào việc phạm tội và có đơn xin lại xe ô đầu kéo và sơ mi rơ mooc. Ngày 28/3/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn ban hành Quyết định trao trả chiếc xe trên cho Bùi Văn T và Bùi Văn V quản lý và sử dụng là không trái quy định của pháp luật, cần chấp nhận.
[7] Về vấn đề khác:
Về nguồn gốc 0,96 gam Methamphetamine bị thu giữ, Lò Văn K khai mua của một người đàn ông tự giới thiệu tên Tuấn nhà ở huyện Mai Sơn (K không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ) tại khu vực thuộc bản Mạt, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn vào ngày 25/3/2022 (việc mua bán không có ai cùng tham gia, chứng kiến). Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở để mở rộng vụ án. Buộc Lò Văn K phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng 0,96 gam Methamphetamine bị thu giữ trong vụ án.
Đối với Quàng Văn Kh, quá trình điều tra xác định là người đi cùng xe ô tô với Lò Văn K nhưng không biết việc K liên lạc, giao dịch mua ma túy và tàng trữ ma túy trên xe ô tô. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập hình thức xử lý đối với Quàng Văn Kh.
[8] Về án phí:
Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Lò Văn K 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 25/3/2022).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;
điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 0,63 gam methamphetamine, vỏ phong bì cũ gửi giám định được niêm phong; Vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon, giấy bạc gói ma túy ban đầu được niêm phong.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động IPHONE kèm 01 sim thu giữ của bị cáo.
Trả cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia kèm 01 sim.
Chấp nhận Cơ quan điều tra trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bùi Văn T, Bùi Văn V xe ô tô đầu kéo hiệu HYUNDAI biển kiểm soát 26C - 036.66 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 26R - 007.32.
3. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2022/HS-ST
Số hiệu: | 84/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về