Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 81/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SL, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 81/2023/HS-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố SL, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 93/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2023/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyn Phúc H (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 29 tháng 9 năm 1975 tại thành phố SL, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tổ 6, phường Q, thành phố SL, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Nguyễn Chí T (đã chết) và con bà Đào Thị L (sinh năm 1941); bị cáo có vợ là Trần Thị H (sinh năm 1971); bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19/8/2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 07 (bảy) năm tù giam về tội Giết người. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/02/2023, tổ công tác Công an phường Tô Hiệu phối hợp với Công an phường Q, thành phố SL làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 3, phường Q, thành phố SL đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Phúc H, sinh năm 1975, đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc, bên trong gói giấy bạc có 7 viên nén đồng dạng màu hồng và 01 gói giấy màu trắng, bên trong gói giấy màu trắng có chứa cục bột màu trắng, H khai là ma túy ma túy, cất giữ để sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố SL tiến hành bóc mở niêm phong, tách bì, cân tịnh và xác định khối lượng vật chứng khi thu giữ Nguyễn Phúc H. Kết quả:

- 07 viên nén màu hồng đồng dạng có khối lượng 0,71 gam, lấy 02 viên có khối lượng 0,20 gam làm mẫu giám định ký hiệu là A1. Còn lại 05 viên có khối lượng 0,51 gam làm mẫu lưu kho vật chứng ký hiệu là A2.

- Cục bột màu trắng có khối lượng là 0,05 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu B.

Tại Kết luận giám định số: 410/KL-KTHS ngày 18/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu A1 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu B là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,71 gam; loại Methamphetamine và 0,05 gam, loại Heroine; mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Phúc H khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 10 giờ 00 phút ngày 16/02/2023, Nguyễn Phúc H đi xe mô tô ôm từ nhà ở tổ 6, phường Q, thành phố SL đến khu vực Trường Đại học TB, thành phố SL, tỉnh Sơn La thuộc tổ 2, phường Q, thành phố SL để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, H xuống xe, gặp và hỏi mua được của một người nam giới (H không biết tên, tuổi, địa chỉ) một gói giấy bạc bên trong có chứa 07 viên ma túy Hồng phiến và 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa ma túy Heroine với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua, H cầm số ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ để tìm nơi sử dụng, khi đi đến khu vực tổ 3, phường Q, thành phố SL thì bị Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Thực hiện điều tra xác minh đối với nam thanh niên bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Phúc H nhưng không có cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 176/CT-VKSTP ngày 11/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Nguyễn Phúc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội.

Tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL giữ quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phúc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Phúc H từ 20 (hai mươi) đến 24 (hai mươi tư) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ:

01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc, 01 mảnh giấy màu trắng; 0,51 (không phẩy năm mươi mốt) gam Methamphetamine ký hiệu là A2.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Phúc H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến gì đối đáp với đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố SL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 16/02/2023, Nguyễn Phúc H đã có hành vi cất giữ trái phép 0,71 gam Methamphetamine và 0,05 gam Heroine, hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng: Lời khai nhận tội của bị cáo; biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 16/02/2023 tại tổ 3, phường Q, thành phố SL, tỉnh Sơn La đối với Nguyễn Phúc H cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy bạc, bên trong có 7 viên nén đồng dạng màu hồng và 01 gói giấy màu trắng, bên trong gói giấy màu trắng có chứa cục bột màu trắng, H khai là ma túy để sử dụng; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 410/KL-KTHS ngày 18/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Trần Quang B, sinh năm 1981, trú tại bản tổ 5, phường T, thành phố SL, tỉnh Sơn La, là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang.

Từ các căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Phúc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo Nguyễn Phúc H phạm tội tàng trữ trái phép 2 chất ma túy là 0,71 gam Methamphetamine và 0,05 gam Heroine, căn cứ theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự thì hai chất ma túy thu giữ của Nguyễn Phúc H được tính tổng là 0,76 gam, và vi phạm vào tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc loại tội phạm nghiêm trọng.

Hành vi vi phạm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án (đã được xóa án tích) nhưng vẫn tiếp tục phạm tội, là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, không có khả năng tự cải tạo. Do đó, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe cho hành vi tương tự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có mẹ đẻ được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, bố đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì. Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bản thân bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2023 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Đối với nguồn gốc 0,71 gam Methamphetamine và 0,05 gam Heroine: Bị cáo khai ngày 16/02/2023, bị cáo mua được của một người nam giới, không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực Trường Đại học TB, thành phố SL. Ngoài lời khai của bị cáo, cơ quan chức năng đã tiến hành điều tra xác minh, nhưng không thu thập được tài liệu chứng cứ gì, do đó buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự toàn bộ đối với số ma túy bị thu giữ.

[9] Vật chứng của vụ án: Đối với 0,51 (không phẩy năm mươi mốt) gam Methamphetamine ký hiệu là A2 hiện đang lưu kho vật chứng, là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy bạc với 01 mảnh giấy màu trắng là vật chứng không có giá trị sử dụng, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu và tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 , khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phúc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phúc H 22 (hai mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (16/02/2023).

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc, 01 mảnh giấy màu trắng, 0,51 (không phẩy năm mươi mốt) gam Methamphetamine ký hiệu là A2 (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 084826 của Công an thành phố SL).

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/5/2023 giữa Công an thành phố SL và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố SL, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Phúc H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31/5/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 81/2023/HS-ST

Số hiệu:81/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về