TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 67/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại Điểm cầu trung tâm Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Eah’Leo, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2022/TLST - HS ngày 05 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2022/QĐXXST- HS, ngày 08 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo Lục Văn P.
Người tiến hành tố tụng tại điểm cầu thành phần gồm có: ông Trịnh Văn H – Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo; ông Nguyễn Thế T - Thư ký Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo.
Người tham gia tố tụng tại điểm cầu thành phần, gồm có:
Họ và tên: Lục Văn Ph, sinh năm 1992; tại: tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm Nông; trình độ học vấn 5/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lục Văn K, sinh năm 1964 và bà Nông Thị H, sinh năm 1966; gia đình có 03 người con bị cáo là con thứ 2; tiền án: 01 (năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện EaH’Leo xử phạt 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình tù ngày 09/11/2013, nhưng chưa chấp hành phần án phí hình sự sơ thẩm; tiền sự: 01, ngày 28/10/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp xử lý hành chính “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” chấp hành xong ngày 24/10/2021; Nhân thân: Ngày 26/5/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 47/2010/HSST và bản án số 48/2010/HSST; ngày 17/11/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội “cố ý gây thương tích”, theo bản án số 449/2014/HSPT, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/5/2017, về án phí hình sự và án phí dân sơ đã được miễn thi hành án theo quyết định số 01/2020 ngày 20/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo; ngày 30/03/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp “đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc” đã chấp hành xong.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02 tháng 6 năm 2022 chuyển tạm giam ngày 10 tháng 6 năm 2022 – bị cáo có mặt.
Người tham gia tố tụng khác tại điểm cầu thành phần gồm: ông Hà Đình Minh Đ và Trần Nhật T - cán bộ chiến sĩ nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’Leo – có mặt.
Người tham gia tố tụng tại điểm cầu trung tâm, gồm: Người làm chứng: anh Lâm Quang Đ – sinh năm 1978.
Nơi cư trú: thôn B,xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lục Văn Ph là đối tượng nghiện ma túy, vào khoảng 05 giờ 30 ngày 02/6/2022, Ph đi bộ từ nhà mình đến khu vực chợ xã E, huyện E, mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến chợ Ph gặp một người đàn ông không xác định được nhân thân lai lịch, qua nói chuyện biết người này bán ma túy nên Ph mua 200.000đ, người này lấy tiền rồi đưa cho Ph 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất ma túy, Ph bỏ vào túi quần rồi đi về nhà. Khoảng 6 giờ cùng ngày Công an xã E đến nhà Ph để vận động Ph đi cai nghiện, thì Ph đã tự nguyện lấy gói ma túy trong túi quần ra giao nộp và khai báo về hành vi phạm tội của mình với tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản và niêm phong vật chứng do Ph giao nộp.
Kết luận giám định số 523/KL-KTHS ngày 09 tháng 6 năm 2022, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc màu trắng được niêm phong gửi đi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1960 gam loại Heroine. Khối lượng còn lại sau giám định là 0,1603 gam.
Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKS, ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo truy tố Lục Văn Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm”.
Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng.
Kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi phân tích các chứng cứ buộc tội, tính chất của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên giữ nguyên việc truy tố bị cáo về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng thay đổi quyết định truy tố từ khoản 2 xuống khoản 1 Điều 249 BLHS, vì lý do: tiền án được xác định tại bản án số 14/2013/HSST là hành vi “cố ý gây thương tích” và “trộm cắp tài sản” bị xét xử tại bản án số 47 và 48 ngày 26/5/2010, khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo chưa đủ 18 tuổi, theo Điều 107 Bộ luật hình sự năm 2015 thì người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý được coi là không có án tích. Căn cứ nghị quyết 41 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14 thì hành vi của bị cáo bị xét xử tại các bản án số 47, 48 ngày 26/5/2010 đương nhiên đã được xóa án tích và bản án số 449/HSPT ngày 11/11/2014 cũng đã đủ điều kiện được xóa án tích nên chỉ còn lại lần phạm tội bị xét xử tại bản án số 14/2013/HSST ngày 05/02/2013 là chưa được xóa án tích nên đây là tình tiết tăng nặng “tái phạm” chứ không phải là tái phạm nguy hiểm như cáo trạng đã nêu; Kiểm sát viên đề nghị HĐXX xét xử: Tuyên bố bị cáo Lục Văn Ph phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lục Văn Ph từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.
Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,1603 gam Heroine là vật chứng của vụ án còn lại sau giám định.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên.
Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’Leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do nghiện ma túy nên sáng ngày 02/6/2022 Lục Văn Ph đã đi bộ đến khu vực chợ xã E, huyện E mua ma túy của một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch với số lượng 0,1960 gam ma túy loại Heroine sau đó bỏ vào túi quần mang về nhà để sử dụng, nhưng khi chưa kịp sử dụng thì đến khoảng 06 giờ cùng ngày tổ công tác Công an xã E đến để vận động bị cáo đi cai nghiện ma túy, qua sự giải thích và vận động của công an thì bị cáo đã lấy ma túy trong túi quần của mình ra giao nộp và tự khai báo về hành vi phạm tội của mình.
Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ nhận thức và biết rõ hành vi của mình là phạm tội, nhưng để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo vẫn thực hiện, như vậy đã đủ căn cứ để kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Lục Văn Ph đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Cáo trạng số 63/CT-VKS, ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo truy tố Lục Văn Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm”. Tuy nhiên tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thay đổi quyết định truy tố bị cáo từ khoản 2 xuống khoản 1 Điều 249 BLHS. HĐXX thấy, việc Kiểm sát viên thay đổi quyết định truy tố từ khoản 2 xuống khoản 1 là có căn cứ, bởi lẽ tình tiết tăng nặng “tái phạm” được áp dụng tại bản án số 14/2013/HSST ngày 05/02/2013 là tiền án của các bản án số 47 và 48 ngày 26/5/2010 nhưng hành vi phạm tội của bị cáo bị xét xử tại các bản án 47, 48 được thực hiện khi bị cáo chưa đủ 18 tuổi. Theo tinh thần áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo quy định tại Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và Điều 107 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì tình tiết “tái phạm” được áp dụng tại bản án số 14/2013/HSST ngày 05/02/2013 đương nhiên đã được xóa, nên không còn được tính là “đã tái phạm” để làm tình tiết định khung truy tố bị cáo trong lần phạm tội này, còn bản án số 449/2014/HSPT ngày 17/11/2014 bị cáo đã chấp hành xong và đã đủ điều kiện xóa án tích theo quy định tại Điều 70 và 73 Bộ luật hình sự, hiện tại bị cáo chỉ còn 01 tiền án là hành vi trộm cắp tài sản được xét xử tại bản án số 14/2013/HSST ngày 05/02/2013 do chưa chấp hành xong phần án phí HSST.
Tại Điều 249 BLHS quy định:
1, “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
.......
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam” [3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện mạnh, làm hủy hoại sức khỏe, suy thoái giống nòi, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, văn hóa đời sống xã hội, đồng thời là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn như mại dâm, HIV/AIDS và làm gia tăng các tội phạm như trộm cắp, lừa đảo, cướp của, giết người… Hiện nay ma túy là vấn đề nhức nhối và bức xúc của xã hội, nhà nước đã tốn nhiều công sức và tiền của cho việc phòng, chống ma túy, nhưng các tệ nạn và loại tội phạm về ma túy không giảm mà ngày càng gia tăng, tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp. Bị cáo là người có đủ nhận thức, biết rõ tác hại của chất ma túy và hành vi mua bán, tàng trữ chất ma túy là phạm tội và sẽ bị pháp luật trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng vì lối sống buông thả, ý thức xem thường pháp luật, nên bị cáo đã nghiện ngập và thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có 01 tiền sự liên quan đến hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và đã có 01 tiền án về tội “trộm cắp tài sản”, (năm 2013 bị xử phạt 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản” mặc dù đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 09/11/2013, nhưng chưa chấp hành khoản tiền án phí nên chưa được xóa án tích) đây là tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo điểm h khoản 2 Điều 52 BLHS, mặt khác bị cáo là người có nhân thân xấu đã nhiều lần bị kết án và bị xử phạt tù, sau khi chấp hành xong hình phạt không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục cuộc sống buông thả dấn thân vào con đường phạm tội điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Do vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo một thời gian, thì mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật, đồng thời phát huy tác dụng răn đe, phòng ngừa chung, phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng đó là: Khi tổ công tác của Công an xã E đến để vận động đi cai nghiện thì bị cáo đã tự nguyện giao nộp số ma túy bị cáo đang cất giữ và khai báo về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết “tự thú”; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã “thành khẩn khai báo” đồng thời bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật có phần hạn chế, đây là các tình tiết giảm nhẹ theo điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng nhằm giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.
[5] Xét mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.
[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,1603 gam Heroine là vật chứng của vụ án còn lại sau giám định.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu là 200.000đ án phí HSST.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lục Văn Ph, phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015; Nghị quyết 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; điểm đ khoản 1 Điều 12 nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án.
Xử phạt bị cáo Lục Văn Ph 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 02/6/2022).
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định là 0,1603 gam Heroine (có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 06/9/2022 giữa cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Ea H’Leo và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo).
Về án phí: bị cáo Lục Văn Ph phải nộp 200.000đ án phí HSST.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2022/HS-ST
Số hiệu: | 67/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về