Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xét xử công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2022/TLST- HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2022/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Văn D (Tên gọi khác: C), sinh ngày 18 tháng 10 năm 1985, tại tỉnh Quảng Trị.

Nơi ĐKHKTT: Khu phố AH, thị trấn CT, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị; Chổ ở: Khu phố A, Phường B, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn B, sinh năm: 1957 và bà Lê Thị H, sinh năm: 1962; Gia đình có 03 người con, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Lê Thị Mỹ K, sinh năm 1986 (đã ly hôn); Con: có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 17/02/2004, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 16/12/2008, Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ sau đó chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị từ ngày 01/11/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 50 phút ngày 01/11/2021, Trần Văn D đi xe taxi đến khu vực kiệt số 69 đường Lê Văn Hưu (thuộc khu phố 2, phường Đông Lễ, thành phố Đông Hà) tìm gặp nam thanh niên tên H (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 10 viên ma túy với giá 400.000 đồng. Có được ma túy, D cầm ở tay trái rồi lên xe taxi đi đến đường Nguyễn Trãi. Khi đến trước quán tạp hóa Thanh Hương ở số 05 đường Nguyễn Trãi (thuộc khu phố 9, Phường 1, thành phố Đông Hà), D xuống xe đi vào quán để mua thuốc lá thì bị lực lượng Công an thành phố Đông Hà phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- 10 (mười) viên nén hình trụ tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY được đựng trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng, hàn kín hai đầu được quấn bởi băng keo màu đen;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A02S, màu xanh, màn hình cảm ứng kèm theo sim 0977135385.

- 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tại bản kết luận giám định số 1088/KLGĐ-KTHS ngày 05/11/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 10 viên nén hình trụ tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY (được niêm phong trong phong bì Công an thành phố Đông Hà, bên ngoài có ký hiệu M) có khối lượng 1,0441 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 51/CT-VKSĐH ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Trần Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Văn D từ 19 tháng đến 21 tháng tù.

Về vật chứng:

- Đề nghị tịch thu, tiêu hủy số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3 1908234 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị.

- Đề nghị trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A02S, màu xanh, màn hình cảm ứng kèm theo sim 0977135385 và số tiền 300.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 01/11/2021, tại trước cửa hàng tạp hóa Thanh Hương số 05 đường Nguyễn Trãi (thuộc khu phố 9, Phường 1, thành phố Đông Hà), Công an thành phố Đông Hà bắt quả tang Trần Văn D có hành vi tàng trữ 10 viên ma túy với mục đích để sử dụng. Tại bản kết luận giám định số 1088/KLGĐ-KTHS ngày 05/11/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 10 viên nén hình trụ tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY (được niêm phong trong phong bì Công an thành phố Đông Hà, bên ngoài có ký hiệu M) có khối lượng 1,0441 gam, là ma túy loại Methamphetamine. Hành vi của bị cáo Trần Văn D đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Trần Văn D về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét về tính chất, hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước mà còn là nguyên nhân dẫn đến gây mất tình hình an ninh trật tự ở địa phương.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn D không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Xét tính chất, mức độ, hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng. Bản thân bị cáo nhiều lần đã bị Tòa án đưa ra xét xử, thời gian chấp hành án bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do đó, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo.

[7] Đối với nam thanh niên tên H đã bán ma túy cho D, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, nhân thân nên không có cơ sở để xử lý.

[8] Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Văn D 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13/5/2022) để đảm bảo thi hành án.

[9] Về vật chứng:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A02S, màu xanh, màn hình cảm ứng kèm sim số 0977135385, số Imeil 1: 351864455051023, số Imeil 2: 355795645051026, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

- Số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành; bao bì gói ma túy không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn D (Tên gọi khác: C) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn D 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 01 tháng 11 năm 2021.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự - Tịch thu, tiêu hủy số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3 1908234 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị.

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn D 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A02S, màu xanh, màn hình cảm ứng kèm sim số 0977135385, số Imeil 1: 351864455051023, số Imeil 2: 355795645051026, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn D số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng cần tạm giữ 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/4/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà và Biên lai thu tiền số BB/2021/0000058 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà ngày 20/4/2022)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Văn D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

551
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST

Số hiệu:53/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về