Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

1. Họ tên: Bùi Văn B Tên gọi khác: Không Sinh năm: 1974 STQ: Thôn Y, xã H, huyện M, TP Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động tự do Họ tên bố: Bùi Văn B- đã chết.

Họ tên mẹ: Trịnh Thị K- sinh năm 1950 Vợ: Nguyễn Thị T- sinh năm 1982 Con: có 5 con lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2014.

Tiền án: Ngày 20/11/2020 bị TAND huyện Mỹ Đức xử phạt 15 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 10/02/2022. Chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không. Nhân thân:

- Năm 1998 bị TAND huyện Mỹ Đức, xử phạt 6 tháng tù cho hưởng án treo về tội: Cố ý gây thương tích.

- Năm 2011 bị TAND huyện Mỹ Đức xử phạt 24 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/5/2022, chuyển tạm giam ngày 25/5/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an TP Hà Nội. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đinh Thị Mai Phương - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Hà Nội. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Bùi Văn B, sinh năm 1971. Nơi cư trú: thôn Yến Vỹ, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 19/5/2022, Công an xã Hương Sơn phối hợp với Đội Cảnh sát giao thông - Công an huyện Mỹ Đức tuần tra kiểm soát tại khu vực xóm 12, thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội phát hiện Bùi Văn B, sinh năm 1974, trú tại: Thôn Y, xã H, huyện M, TP Hà Nội đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sunfat, BKS: 33M1-A có biểu hiện nghi vấn, quá trình kiểm tra thu giữ trên tay trái của B 01 gói giấy có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột màu trắng, B khai nhận đó là Heroin mua về để sử dụng. Lực lượng Công an đã tiến hành thu giữ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Sunfat BKS: 33M1-A đã qua sử dụng và 01 gói giấy có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột màu trắng và đưa B về trụ sở làm việc.

Quá trình điều tra làm rõ như sau: Khoảng 08 giờ ngày 19/5/2022, B mượn xe máy nhãn hiệu Sunfat BKS: 33M1-A của anh Bùi Văn B, sinh năm 1971 (là anh trai B) trú cùng thôn với B điều khiển đến khu vực xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội, gặp một người thanh niên không biết tên, tuổi, địa chỉ mua ma túy với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy B cầm ở tay trái rồi đi xe máy về tới khu vực xóm 12, thôn Đục Khê, xã Hương Sơn thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện trong lòng bàn tay trái của B 01 gói giấy có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột màu trắng B khai là ma túy Heroine B mua về để sử dụng.

Ngày 19/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Mỹ Đức đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 131/QĐ-CSĐT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội.

Tại kết luận giám định số 3333/KL-KTHS ngày 26/5/2022 Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy, có dòng kẻ là ma túy loại Heroin, tổng khối lượng: 0,162gam.

Đối với chiếc xe máy BKS: 33M1-A, số khung: 003112, số máy: 003112, đăng ký chính chủ mang tên Nguyễn Huy T, sinh năm 1959, trú tại: thôn 3, xã P, huyện P, TP Hà Nội, anh Tiếp đã bán chiếc xe trên cho anh Bùi Văn B năm 2006, ngày 19/5/2022, B mượn xe của anh B, anh B không biết B đi mua ma túy để sử dụng. Kết quả tra cứu không nằm trong dữ liệu xe máy vật chứng. Xe chuyển theo hồ sơ vụ án.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho B, do không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra làm rõ, phù hợp với quy định pháp luật.

Tang vật chuyển theo hồ sơ vụ án: 01 phong bì mẫu vật của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội có chữ ký của giám định viên và Bùi Văn B; 01 xe máy BKS: 33M1-A.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn B thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như kết quả điều tra đã nêu. Lời khai của bị can phù hợp với B bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, tang vật thu giữ và các tài liệu chứng cứ chứng minh được xác định trong quá trình điều tra vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 48/CT-VKS-MĐ ngày 15/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội truy tố Bùi Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội giữ nguyên quan điểm truy tố về hành vi, tội danh và điều luật. Đề nghị Hội đồng xét xử:

+Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bùi Văn B 24 đến 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo. Trả ông Ban chiếc xe máy vì là tài sản quản lý hợp pháp của ông.

+Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

- Luật sư nhất trí tội danh và điều luật truy tố đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ông Bùi Văn B trình bày cho ông xin lại xe máy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, xem xét đầy đủ toàn diện chứng xứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Mỹ Đức; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên huyện Mỹ Đức trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng Hình sự. Về các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người có liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng truy tố. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với B bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Ngày 19/5/2022, Bùi Văn B mua 200.000 đồng được 0,162 gam heroin, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang.

Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, nên đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất của vụ án và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Tệ nạn ma túy đã và đang phá hoại hạnh phúc của nhiều gia đình, hủy hoại sức khỏe, nhân cách con người và còn là nguyên nhân gây ra tội phạm. Do vậy, vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm .

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Nhân thân: Bị cáo có 2 tiền án ( trong đó có 01 tiền án về tội ma túy)

[5] Quyết định hình phạt: Căn cứ tính chất của vụ án và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải xử phạt tù giam bị cáo một thời gian mới đảm bảo tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo làm nghề lao động tự do, công việc và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối chiếc xe máy là tài sản quản lý hợp pháp của ông Ban, ông Ban không biết việc phạm tội của bị cáo nên trả lại.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho B: Do B không biết họ tên địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ điều tra làm rõ. Tòa không xét.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 ( tái phạm); Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Bùi Văn B 24 ( hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 19/5/2022.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì mẫu vật của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hà Nội có chữ ký của giám định viên và Bùi Văn B - Trả ông Bùi Văn B 01 xe máy nhãn hiệu Sufat đeo biển kiểm soát: 33M1-A số khung 003112; số máy 003112.

Vật chứng có đặc điểm và số lượng như B bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/7/2022 giữa Công an huyện Mỹ Đức và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 01 Điều 21, điểm a khoản 01 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Bùi Văn B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về