Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 01 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 628/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 10/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2022; thông báo rời lịch số 30/TB- TA ngày 21 tháng 01 năm 2022 đối với:

- Bị cáo: Ngô Quốc N (tên gọi khác: B), sinh năm 1987 tại Đồng Nai; nơi cư trú: 39, khu phố 7, phường Tân P, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị Th (đã chết); bị cáo có vợ là Lê Nguyễn Thảo Tr và có 01 con là Ngô Ngọc Diễm Q sinh năm 2008;

Tiền án: Ngày 24/4/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 04/02/2021.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị giam, giữ từ ngày từ ngày 27/7/2021 tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa; (có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngô Thị Tuyết M, sinh năm: 1981; cư trú tại: khu phố M, Phường TD, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1995.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Quốc N là người sử dụng trái phép chất ma tuý. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 26/7/2021, Nam đi đến khu vực bệnh viện Tâm thần Trung ương 2, thuộc khu phố 7, phường Tân P, thành phố Biên Hòa mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy đá với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Sau đó, N lấy 01 phần sử dụng, phần còn lại N cất giấu để sử dụng dần.

Khoảng 11 giờ ngày 27/7/2021, N cất giấu số ma túy trên vào trong hộp đựng kính bỏ trong túi xách N đeo trên người rồi điều khiển xe mô tô biển số 70E1-428.39 đi tìm nơi để sử dụng ma túy. Khi N đi đến khu vực ngã tư Lạc Cường thì gặp chị Nguyễn Thị Quỳnh Nh, sinh năm 1998, ngụ tại xã Ph, huyện C, tỉnh Đồng Nai (bạn của N) đang đi bộ và xin N cho đi nhờ xe về nhà tại xã Thạnh Phú (chị Nh không biết việc N cất giấu ma túy). N đồng ý và chở chị Nh đi về đến trạm thu phí số 1, thuộc khu phố 2, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hoà thì bị Tổ tuần tra Công an thành phố Biên Hoà kiểm tra phát hiện và bắt quả tang cùng tang vật.

Quá trình điều tra, Ngô Quốc N khai nhận hành vi phạm tội như trên.

- Vật chứng thu giữ :

- 01 gói ma túy tổng hợp đã niêm phong có chữ ký của Ngô Quốc N và dấu mộc tròn đỏ của công an phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa.

- 01 nỏ thủy tinh để sử dụng ma túy.

- Số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) của Ngô Quốc N, không liên quan đến vụ án.

- 01 xe mô tô biển số 70E1-428.39 số máy F122TH300872, số khung BF12CTH300872 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A20, Imel:

357086106112301/01, số thuê bao 0933966132 là tài sản của chị Ngô Thị Tuyết M, sinh năm 1981 (chị gái của N), ngụ tại: khu phố M, phường D, thành phố BH. Chị M không biết việc N sử dụng tài sản trên vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại xe cho chị M (Bút lục 63-68).

- Tại Kết luận giám định số 1591/KLGĐ-PC09 ngày 01/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận như sau: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 2,8273 gam, loại: Methamphetamine” Tại Cáo trạng số: 24/CT-VKSBH ngày 27/12/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Ngô Quốc N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Ngô Quốc N từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù.

+ Xử lý vật chứng theo quy định.

- Bị cáo đã có đơn xin vắng mặt, đồng thời tại đơn xin vắng mặt bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo khẳng định tại Cơ quan điều tra bị cáo đã khai đúng và đủ toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Xét thấy, lời khai của họ đã đầy đủ và có trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt trên không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố và tội danh:

Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo Ngô Quốc N thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 11 giờ ngày 27/7/2021, tại đoạn đường trước trạm thu phí số 1, thuộc khu phố 2, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hoà, Ngô Quốc N có hành vi tàng trữ trái phép 2,8273 gam ma túy, loại Methamphetamine, thì bị Tổ tuần tra Công an thành phố Biên Hòa phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, bản Cáo trạng số 24/CT-VKSBH ngày 27/12/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Ngày 24/4/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 24/4/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 04/02/2021, chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về vật chứng:

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định (Theo Quyết định chuyển vật chứng số 541/QĐ-VKSBH ngày 27/12/2021 và Biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa ngày 11/01/2022) là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ nên căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 nỏ thủy tinh để sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) của Ngô Quốc N, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

- 01 xe mô tô biển số 70E1-428.39 số máy F122TH300872, số khung BF12CTH300872 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A20, Imel:

357086106112301/01, số thuê bao 0933966132 là tài sản của chị Ngô Thị Tuyết M, sinh năm 1981 (chị gái của N), ngụ tại: 334/18/35A, khu phố 1, phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa. Chị M không biết việc Nam sử dụng tài sản trên vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại xe cho chị M là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng (không rõ lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Ngô Quốc N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Ngô Quốc N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[6] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại Tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Quốc N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Ngô Quốc N 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tù; thời hạn tù được tính từ ngày 27 tháng 7 năm 2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 1591/KLGĐ-PC09 ngày 06/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Quyết định chuyển vật chứng số 541/QĐ-VKSBH ngày 27/12/2021 và Biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa ngày 11/01/2022;

Trả lại cho bị cáo Ngô Quốc N số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0002344 ngày 11/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa.

3. Về án phí: Bị cáo Ngô Quốc N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về