Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2022/TLST-HS ngày 08-4-2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐXXST-HS ngày 14-4-2022 đối với bị cáo:

Đặng Tuấn V, sinh năm 1990 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; HKTT: Tổ 5, ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; chỗ ở: Không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn K, sinh năm 1962 và bà Đinh Thị X, sinh năm 1969; có vợ Trương Thị Ngọc D, sinh năm 1991 (đã ly dị) và 01 con sinh năm 2010; tiền án: Không;

Tiền sự: Quyết định số 131/QĐ-UBND ngày 21-6-2021 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Đặng Tuấn V trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày 21-6-2021 vì có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13-01-2022 sau đó chuyển sang tạm giam từ ngày 21-01-2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện L (có mặt) - Người chứng kiến: Tô Thị U sinh năm 1960; địa chỉ: Khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Tuấn V là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy (loại ma túy đá). Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 13-01-2022, V điện thoại cho một người đàn ông tên T (chưa rõ nhân thân, lại lịch) hỏi mua 300.000đ ma túy đá, T đồng ý. T nói V mua 03 card điện thoại di động mỗi card mệnh giá 100.0000 để đổi lấy ma túy và ma túy được để trong 01 vỏ hộp thuốc lá hiệu Sài Gòn để ở khu vực cầu B thuộc xã L, thành phố B. Sau khi nghe điện thoại xong, V chạy xe đi mua 05 card điện thoại di động, mỗi card mệnh giá 50.000đ và 01 card điện thoại di động mệnh giá 20.000đ của nhà mạng Viettel rồi chạy xe đến địa điểm đã hẹn để đổi lấy ma túy. Đến nơi, V thấy 01 vỏ hộp thuốc lá hiệu Sài Gòn để ở khu vực gần ruộng nên lấy kiểm tra thì thấy bên trong có 01 gói ma túy, V lấy gói ma túy ra cầm trên tay rồi bỏ số card điện thoại di động vào trong vỏ hộp thuốc lá và để lại chỗ cũ. Sau khi mua được ma túy, V điều khiển xe mô tô đi đến nhà bà Trương Thị N thuộc tổ 10, khu phố L, thị trấn L, huyện L (là cô vợ của V). Đến nơi, thấy nhà bà N đóng cửa nên V đi vào nằm võng trước nhà và V lấy gói ma túy vừa mua được để lên trên bờ tường gần nơi V nằm. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, Công an thị trấn L đến kiểm tra hành chính nhà bà N thì phát hiện bắt quả tang V đang có hành vi tàng trữ trái phép gói ma túy trên. V khai nhận mục đích tàng trữ gói ma túy trên là để sử dụng.

Vật chứng thu giữ và xử lý: 01 gói nylon được hàn kín bên trong có chứa các hạt tinh thể không màu, được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng, sau khi giám định Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã niêm phong lại vụ số 94 ngày 20-01-2022. Hiện đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện L quản lý, chờ xử lý.

Tại Bản kết luận giám định số 94/KLGĐ-PC09-Đ2-MT ngày 20-01-2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an thị trấn L - CAH L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Thiếu tá Nguyễn Văn D, Trần Văn N, Tô Thị U, Nguyễn Mạch Thành N, Đặng Tuấn V, gửi đến giám định có khối lượng 0,4434 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 07-4-2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu truy tố bị cáo Đặng Tuấn V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Tuấn V từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon được hàn kín bên trong có chứa các hạt tinh thể không màu, được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng vụ số 94 ngày 20-01-2022 là vật cấm lưu hành.

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và không có ý kiến gì về luận tội của kiểm sát viên. Lời nói sau cùng bị cáo xin được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện L, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã tuân thủ nghiêm chỉnh theo thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có căn cứ xác định nội dung vụ án như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 13-01-2022, Đặng Tuấn V bị phát hiện quả tang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, theo kết quả giám định có khối lượng 0,4434 gam, là ma túy, loại Methamphetamine, được Vũ cất giấu trên bờ tường trong nhà bà Trương Thị N thuộc tổ 10, khu phố L, thị trấn L, huyện L, với mục đích để sử dụng.

Hành vi mà bị cáo Đặng Tuấn V thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, rất độc hại và hiện nay đang là hiểm họa xã hội, là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương và cho sức khỏe của nhiều người sử dụng ma túy nhưng vì nhu cầu ích kỷ của bản thân, bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác bị cáo có một tiền sự bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn không lấy đó làm bài học cho bản thân. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình 5 Về xử lý vật chứng: 01 gói nylon hàn kín được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu vụ số 94 ngày 20-01-2022 là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông tên T đã bán ma túy cho V hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Đối với bà Trương Thị N không biết việc V cất giấu ma túy trong nhà của mình nên không xử lý là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Tuấn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Tuấn V 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13-01-2022.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon hàn kín được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu vụ số 94 ngày 20-01-2022.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 57/BB-CCTHADS ngày 07-04-2022 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền)

4. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo Đặng Tuấn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26-4-2022), bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu yêu cầu xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2022/HS-ST

Số hiệu:43/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về