TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 29 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Sùng Thị C sinh ngày 02 tháng 01 năm 1956 tại xã Tà Tổng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: Bản Cây Sổ, xã Nậm Vì, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: Không; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sùng A H (đã chết) và con bà Chang Thị D sinh năm 1932; Bị cáo Sùng Thị C có chồng là Lù A T sinh năm 1950 và có 02 con, con lớn nhất 22 tuổi, con nhỏ nhất 18 tuổi; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Chưa bị Tòa án kết tội lần nào. Bị cáo Sùng Thị C bắt tạm giữ từ ngày 11 tháng 6 năm 2022 đến ngày 14 tháng 6 năm 2022, tạm giam từ ngày 14 tháng 6 năm 2022 đến nay, có mặt.
- Người phiên dịch cho bị cáo Sùng Thị C: Anh Kháng Quang Vinh sinh năm 1993. Có mặt.
Trú tại: Tổ dân cư số 2, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé – Điện Biên.
- Người bào chữa cho bị cáo Sùng Thị C: Bà Mai Thị Thanh Liêm trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên tham gia tố tụng. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào chiều ngày 08 tháng 6 năm 2022 bị cáo Sùng Thị C đi bộ từ nhà bản Cây Sổ, xã Nậm Vì, huyện Mường Nhé lên bản Nậm Là, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé tìm mua Thuốc phiện về sử dụng. Đến ngày 10 tháng 6 năm 2022 khi bị cáo Sùng Thị C đến khu vực biên giới Việt Nam – Lào gần bản Nậm Là, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ, cụ thể ở đâu. Bị cáo Sùng Thị C hỏi mua được 01 (một) gói Thuốc phiện với số tiền là 1.000.000 (Một triệu) đồng. Mua bán xong người phụ nữ đó đi đâu bị cáo Sùng Thị C không biết, còn bị cáo Sùng Thị C giấu gói Thuốc phiện vào túi vải, rồi đi về nhà, khi đi đến lán nương thì ngủ lại qua đêm và có lấy một ít ra để sử dụng. Vào 18 giờ 30 phút ngày 11 tháng 6 năm 2022 khi đang về đến khu vực bản Nậm Là, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé thì bị tổ công tác đồn biên phòng Leng Su Sìn và đồn biên phòng Mường Nhé phát hiện bắt quả tang, tổ công tác thu giữ toàn bộ số Thuốc phiện và đưa về đồn biên phòng Mường Nhé; sau đó đưa về Công an huyện Mường Nhé để làm rõ.
Ngày 12 tháng 6 năm 2022 đồn biên phòng Mường Nhé; Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên cùng với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng, khối lượng Thuốc phiện thu giữ của Sùng Thị C là 79,07 gam.
Bản kết luận giám định số: 778/KL-KTHS ngày 13 tháng 6 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất dẻo màu nâu đen khối lượng 79,07 gam gửi giám định của Sùng Thị C là chất ma túy, loại Thuốc phiện. Tổng khối lượng 79,07 gam thu được của Sùng Thị C là Thuốc phiện và hoàn lại mẫu vật giám định còn lại là 62,5 gam Thuốc phiện.
Bản cáo trạng số: 28/CT-VKSMN ngày 29 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Sùng Thị C để xét xử về tội:
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS; Điều 38;
điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Sùng Thị C từ 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án. Áp dụng Điều 136 BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Sùng Thị C không có ý kiến tranh luận về tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố cũng như phần luận tội của Kiểm sát viên, đồng thời không có ý kiến khiếu nại về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đề nghị HĐXX xem xét đến điều kiện sinh sống của bị cáo dẫn đến nhận thức pháp luật có phần hạn chế; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Người bào chữa đề nghị HĐXX áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xem xét xử phạt cho bị cáo Sùng Thị C mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của đại Viện kiểm sát; đề nghị không áp dụng khoản 5 Điều 249 BLHS về hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về án phí, đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, nhất trí với nội dung truy tố trong Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo Sùng Thị C nhất trí với lời bào chữa và không có ý kiến bổ sung; không có ý kiến khiếu nại về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Lời sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét hành vi phạm tội bị cáo thấy: Lời khai nhận tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng đã có đủ cơ sở để khẳng định: Ngày 10 tháng 6 năm 2022 tại khu vực biên giới Việt Nam – Lào thuộc bản Nậm Là, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên bị cáo Sùng Thị C tìm mua được 01(một) gói Thuốc phiện với số tiền là 1.000.000 đồng của người phụ nữ dân tộc Mông, không biết tên tuổi, địa chỉ ở đâu. Mục đích bị cáo mua Thuốc phiện là để sử dụng do bản thân là người nghiện ma túy. Sau khi mua được bị cáo Sùng Thị C cất giấu vào túi vải màu đen rồi đi về nhà, khi đi đến khu vực bản Nậm Là, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé bị phát hiện và bắt giữ. Khối lượng Thuốc phiện bị thu giữ là 79,07 gam. Do đó HĐXX có đủ căn cứ kết luận bị cáo Sùng Thị C đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 BLHS.
Việc VKSND huyện Mường Nhé truy tố bị cáo Sùng Thị C về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật, bị cáo không bị oan sai.
[2] Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội bị cáo thấy: Đây là vụ án nghiêm trọng về ma túy, mặc dù bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây những tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, gây mất trật tự trị an, cản trở tới việc thực hiện các chính sách kinh tế, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do vậy cần xử lý bị cáo với mức hình phạt thỏa đáng, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo thấy: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Chưa bị Tòa án kết tội lần nào. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Sùng Thị C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 BLHS.
[4] Từ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy cần áp dụng một hình phạt thỏa đáng để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Sùng Thị C từ 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù. Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên cần xem xét xử phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Người bào chữa đề nghị HĐXX áp dụng theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của Viện Kiểm sát. HĐXX xét thấy việc đề nghị của người bào chữa là chưa phù hợp nên không được chấp nhận.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có giấy chứng nhận hộ nghèo do UBND xã Nậm Vì cấp. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện Kiểm sát, người bào chữa về việc không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông bán Thuốc phiện. Qua quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ ở đâu, do đó không có cơ sở để xử lý trong vụ án.
[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy khối lượng: 62,5 gam Thuốc phiện còn lại đã trừ lấy mẫu giám định. 01(một) túi vải màu đen có dây đeo đã cũ không còn giá trị sử dụng.
[8] Về án phí: Xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có giấy chứng nhận hộ nghèo do UBND xã Nậm Vì. Ngày 14 tháng 9 năm 2022 bị cáo Sùng Thị C đã có đơn đề nghị miễn án phí. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; HĐXX quyết định miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên, Viện kiểm sát; Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa không khiếu nại hoặc ý kiến gì. Như vậy các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; Điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng Thị C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
2.Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Sùng Thị C: 01(một) năm 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 11 tháng 6 năm 2022.
3.Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu huỷ khối lượng: 62,5 gam Thuốc phiện ( còn lại đã trừ lấy mẫu giám định) là vật chứng vụ án Sùng Thị C.
- 01(một) túi vải màu đen có dây đeo đã cũ không còn giá trị sử dụng.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31 tháng 8 năm 2022 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.
4. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5.Về quyền kháng cáo: Bị cáo Sùng Thị C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 29 tháng 9 năm 2022).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 35/2022/HS-ST
Số hiệu: | 35/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về