TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 316/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 319/2023/TLST-HS ngày 26/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 325/2023/QĐXXST–HS ngày 31/10/2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn L, Sinh năm: 1997; NKTT: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông: Nguyễn Văn L1 và bà Nguyễn Thị Q; Bị cáo chưa có vợ con, Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/07/2023, hiện đang tạm giam tại Trại giam S Công an thành phố Hà Nội (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 13/07/2023, Tổ công tác Công an phường T làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát khu vực Sảnh tòa S khu đô thị V, quận N, Hà Nội thì phát hiện Nguyễn Văn L đang đứng trước sảnh tòa nhà có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L tự nguyện lấy từ trong bao thuốc lá cầm trên tay ra 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nilon chứa viên nén màu hồng giao nộp cho cơ quan Công an. Tại chỗ, L khai 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nilon chứa viên nén màu hồng đều là ma túy, L mang theo để sử dụng. Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật, dẫn giải Nguyễn Văn L về trụ sở Công an phường T làm rõ. (BL 23, 24) Vật chứng thu giữ: (BL 30) - 01 (một) túi nilon màu trắng có kích thước khoảng 01x02cm bên trong chứa tinh thể màu trắng.
- 01 (một) túi nilon màu trắng có kích thước khoảng 0,5x01cm bên trong chứa 01 viên nén màu hồng.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng có số imei: 35333407337xxxx, lắp sim số 037770xxxx.
Quá trình điều tra xác định:
Nguyễn Văn L đang làm thợ xây tại khu vực phường D, quận H, Hà Nội. Khoảng 12 giờ ngày 13/7/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên L đã lên mạng xã hội Facebook, truy cập vào nhóm “Hội đập đá" với mục đích tìm bạn nữ để cùng sử dụng ma tuý. L thấy một người sử dụng tài khoản Facebook tên “M", L chủ động nhắn tin, nói chuyện với người này và rủ cùng sử dụng ma tuý. Người này đồng ý kết bạn zalo với L thì L thấy người này sử dụng tài khoản zalo tên là “Min”. Sau đó người sử dụng Zalo tên “Min” rủ L nếu có ma tuý thì mang đến khu đô thị V để cùng sử dụng ma tuý. Do chưa có ma túy nên L thuê xe ô tô đi từ D, H, Hà Nội đến khu vực xã H, huyện H, tỉnh B để mua ma tuý “đá” và ma tuý “hồng phiến” để sử dụng cùng “Min”. L đến trước cửa nhà của 01 người (chưa rõ lai lịch), gõ cửa hỏi mua 500.000 đồng tiền ma tuý “đá” và 01 viên ma tuý “hồng phiến”. L đưa tiền qua khe cửa cho người này và nhận lại 01 túi nilon có chứa ma túy “đá” và 01 viên ma túy “hồng phiến”. Sau đó L thuê xe ô tô đi về khu vực tòa S khu đô thị V, phường T, quận N, Hà Nội để gặp người phụ nữ sử dụng tài khoản Zalo tên “Min” cùng sử dụng số ma túy vừa mua được. Khoảng 20 giờ cùng ngày, khi L đang đứng ở tòa nhà S, khu đô thị V đợi người phụ nữ và cầm trên tay bao thuốc lá bên trong có 01 túi nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng thì bị tổ công tác Công an phường T bắt quả tang và đưa về trụ sở làm việc. (BL 53-68) Tại Kết luận giám định số 4841/KL-KTHS ngày 21/07/2023 của Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, xác định: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy lại Methamphetamine, khối lượng 0,698 gam và 01 viên nén màu hồng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,092 gam. (BL 36) Đối với người bán ma túy cho L ngày 13/07/2023, quá trình điều tra xác định: L chỉ biết nhà của người bán ma túy trên đường Q thuộc xã H, huyện H, tỉnh B, không rõ nhân thân lai lịch cụ thể. Cơ quan Công an đã tiến hành dẫn giải L đến vị trí mua ma túy tại trước cửa căn nhà cấp bốn trên đường Q thuộc xã H, huyện H, tỉnh B thì không thấy ai ở trong, cửa nhà khóa.
Qua xác minh tại Công an xã H thì căn nhà trên đã bỏ hoang từ lâu, không ai sinh sống và không có thông tin người sở hữu, quản lý căn nhà, do đó cơ quan Công an quận Nam Từ Liêm không có căn cứ xác minh để xử lý. (BL 53-70, 72) Đối với người rủ L sử dụng ma túy tại tòa nhà S khu đô thị V, quận N, Hà Nội, dùng tài khoản Facebook tên “M” và tài khoản Zalo tên “Min”: L không rõ nhân thân lai lịch cụ thể của người này, không biết thông tin đăng ký các tài khoản mạng xã hội trên. Cơ quan Công an quận Nam Từ Liêm phối hợp cùng Cơ quan Công an phường T rà soát tại khu vực tòa nhà S khu đô thị V, quận N, Hà Nội nhưng không phát hiện được gì, do đó không có căn cứ để xử lý. (53-68, 74) Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn L khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu, lời khai của bị can phù hợp với người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang và vật chứng đã thu giữ.
Cáo trạng số 310/CT - VKSNTL ngày 23/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn L 16 đến 19 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/7/2023.
Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015:
Tịch thu tiêu hủy ma túy: số ma túy thu giữ.
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại Iphone thu giữ của bị cáo.
Xét bị cáo không có việc làm ổn định nên miễn cho bị cáo hình phạt bổ sung bằng tiền.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Văn L khai nhận hành vi của mình, thành khẩn khai báo nhận tội như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, Biên bản phạm tội quả tang, tang vật thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác Cơ quan điều tra đã thu thập. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ, ngày 23/07/2023, tại sảnh tòa nhà S khu đô thị V, quận N, Hà Nội, Nguyễn Văn L tàng trữ trái phép 0,790 gam ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an phường T, quận N, Hà Nội phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật.
Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo biết tác hại của ma túy, song để phục vụ cho nhu cầu của bản thân, Nguyễn Văn L đã đi mua ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong nhân dân. Vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên coi đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét bị cáo không có việc làm ổn định nên miễn cho bị cáo hình phạt bổ sung bằng tiền.
[3] Vật chứng vụ án:
Cần tịch thu tiêu hủy ma túy:
Cần tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone bên trong gắn sim.
[4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn L từ 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/7/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015:
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng bên trong gắn sim.
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn L. (Tình trạng các vật chứng trên như Biên bản giao nhận vật chứng số 22 ngày 26/10/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm và Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 316/2023/HS-ST
Số hiệu: | 316/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về