Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KS - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vi Văn M, tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 26/10/1964 tại xã PĐ, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: bản KL2, xã PĐ, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 07/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Phia K (Đã chết) và bà Vi Thị PK (Đã chết); vợ: Lương Thị H và 03 con;

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/3/2016, bị Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An xử phạt 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tộ Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 12/5/2018.

Bị cáo bị bắt từ ngày 15/11/2022 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn H, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Lô Khăm T, sinh năm 1977; Nơi cư trú: bản KL3, xã PĐ, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng đầu tháng 12/2022, Vi Văn M đi tìm bò tại khu vực rẫy thuộc bản KL 2, xã PĐ thì gặp một người đàn ông không quen biết, Vi Văn M đã hỏi và mua nợ của người này 01 (Một) gói ma túy với số tiền 2.200.000 đồng (Hai triệu hai trăm nghìn đồng), sau khi mua được ma túy Vi Văn M đưa ma túy về nhà và giất giấu tại giường ngủ với mục đích là sử dụng dần. Ngày 14/11/2022, Vi Văn M lấy 16 viên ma túy bỏ vào bao pôtylen màu hồng rồi cất giấu trong túi đeo bằng vải, màu đen. Đến khoảng 20 giờ, ngày 15/11/2022, khi Vi Văn M đang ở nhà tại bản KL2, xã PĐ, huyện KS thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang thu giữ 1 gói nilông màu hồng có khối lượng 1,61 gam (Nghi là ma túy). Khám xét khẩn cấp chỗ ở phát hiện tại phòng ngủ của Vi Văn M 01 gói pôtylen màu hồng, bên trong chứa nhiều viên nén màu hồng, có khối lượng 20,41 gam (Nghi là ma túy), thu giữ tại gốc giường ngủ 02 (Hai) khẩu sung tự chế và 05 (Năm) viên đạn. Vi Văn M khai 02 (Hai) khẩu sung tự chế là mua của một người đàn ông không quen biết với số tiền 550.000 đồng (Năm trăm năm mươi nghìn đồng), 05 (Năm) viên đạn là Vi Văn M xin của một người đàn tên Kha Văn Pha, trú tại bản Kẻo Lực 2, xã PĐ với mục đích sử dụng để săn thú rừng.

Ngày 16/11/2022, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện KS ra quyết định trưng cầu giám định đối với số ma túy, súng và đạn thu giữ của Vi Văn M.

Tại Kết luận giám định số 1292/KL-KTHS ngày 21/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1) thu giữ của Vi Văn M gửi giám định là ma túy Methamphetamine; mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M2) thu giữ của Vi Văn M gửi giám định là ma túy Methamphetamine có khối lượng 22,02 gam (Hai mươi hai phẩy không hai gam).

Tại Kết luận giám định số 49/KL-KTHS ngày 25/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: 02 (Hai) khẩu súng tự chế thu giữ của Vi Văn M gửi giám định ký hiệu S1, S2 là súng tự chế, bắn đạn cỡ 7,62 mm, thuộc vũ khí quân dụng, hai khẩu súng còn sử dụng để bắn được; 5 (Năm) viên đạn thu giữ của Vi Văn M gửi tới giám định là đạn cỡ 7,62 × 39 mm, thuộc vũ khí quân dụng.

Cáo trạng số 53/CT-VKS-P1 ngày 20/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Vi Văn M về các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vi Văn M mức án từ 06 (Sáu) năm đến 06 năm 06 tháng (Sáu năm sáu tháng) tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từ 01 (một) năm đến 01 năm 06 tháng (Một năm sáu tháng) tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Buộc bị cáo Vi Văn M phải chấp hành một hình phạt chung cho cả hai tội là mức án từ 07 (Bảy) năm đến 08 (Tám ) năm tù; Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, xử lý vật chứng và quyết định nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo Vi Văn M đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức xử phạt nhẹ nhất để có cơ hội sữa chữa sai lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người chứng kiến. Do sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Vi Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 15/11/2022, tại bản Kẻo Lực 2, xã PĐ, huyện KS, tỉnh Nghệ An, Vi Văn M đã có hành vi cất giấu trái phép 22,02 gam (Hai mươi hai phẩy không hai gam) ma túy Methaphetamine, 02 (Hai) khẩu súng tự chế bắn đạn cỡ 7,62 mm và 05 (Năm) viên đạn cỡ 7,62 × 39 mm đều thuộc vũ khí quân dụng nhằm mục đích sử dụng.

Hành vi trên của bị cáo Vi Văn M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp chế độ độc quản lý đối với các loại chất ma túy, đối với vũ khí quân dụng. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm, vũ khí quân dụng bị Nhà nước cấm nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép, hành vi đó đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo đã từng bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, sống có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội, mặc dù tính thời điểm phạm tội lần này bị cáo đã chấp hành án xong, đã được xóa án tích nhưng bị cáo có nhân thân xấu, có thái độ coi thường pháp luật. Do đó cần xử lý bị cáo Vi Văn M nghiêm minh trước pháp luật, tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra và nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, ngoài ra bố đẻ của bị cáo có tham gia kháng chiến và được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo phạm nhiều tội vì vậy cần áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung cho cả hai tội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông đã bán ma túy và người đàn ông đã bán 02 (Hai) khẩu súng tự chế cho Vi Văn M, quá trình điều tra chưa xác định được lý lịch, địa chỉ, khi nào làm rõ sẽ được xử lý; đối với người đàn ông tên Kha Văn Pha (tên gọi khác là ông Bảy), trú tại bản Kẻo Lực 2, xã PĐ; qua triều tra xác minh tại bản Kẻo Lực 2, xã PĐ, huyện KS có ông tên Kha Văn Pha nhưng nay đã chết, do đó không có căn cứ để xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án:

Số ma túy Methaphetamine còn lại có khối lượng 19,82 gam, đây là vật chứng cấm lưu hành, tàng trữ cần tịch thu và tiêu hủy; 01 túi vải màu đen đã qua sử dụng là vật không có giá trị nên được tịch thu để tiêu hủy Đối với 02 (hai) khẩu súng tự chế bắn đạn cỡ 7,62 mm và 02 (Hai) viên đạn cỡ 7,62 × 39 mm, được bảo quản tại Kho K70 Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An. Đây là vũ khí quân dụng đang còn sử dụng được nên giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An xử lý theo thẩm quyền.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và điều luật áp dụng: Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249, khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 55 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vi Văn M 06 (Sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 01 (Một) năm tù về tội“Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Vi Văn M phải chấp hành một hình phạt chung cho cả hai tội là 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 15/11/2022).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư màu trắng, trên phong bì có đầy đủ chữ ký thành phần tham gia niêm phong, bên trong chứa 19,82 gam (Mười chín phẩy tám mươi hai gam) ma túy Methaphetamine; 01 (Một) túi đeo bằng vải màu đen, mặt trước có dòng chữ “Adidas” màu xanh, túi đã qua sử dụng. Các vật chứng đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện KS, tỉnh Nghệ An theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/3/2023;

- Giao cho Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An xử lý theo thẩm quyền 02 (hai) khẩu súng tự chế bắn đạn cỡ 7,62 mm và 3 (Ba) viên đạn cỡ 7,62 × 39 mm. Vật chứng đang được bảo quản tại Kho K70 Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 27/12/2022.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Văn M phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/4/2023)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2023/HS-ST

Số hiệu:31/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về