Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 273/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 273/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 279/2022/TLST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 279/2022/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 9 năm 2022 đối với Bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Đ; Tên gọi Kc: Không; sinh năm: 1994, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản M 1, xã MM, huyện TG, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn Đ1; sinh năm 1974; Con bà: Quàng Thị D; sinh năm 1976; Bị cáo có vợ là: Quàng Thị H, sinh năm 1992, Bị cáo có 01 người con sinh năm 2017. Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Về nhân thân, Bị cáo chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án nào xét xử.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/7/2022, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 17/7/2022 sau khi ăn cơm xong, Bị cáo Lò Văn Đ rủ Nguyễn Văn H, sinh năm 1976 trú tại: Bản K, phường NT, thành phố ĐBP, tỉnh Điện Biên để đi mua nước uống, H đồng ý và điều khiển xe mô tô BKS 27P1- xxxxx chở Bị cáo ngồi sau đến khu vực đầu bản NƯ, xã NƯ, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Bị cáo xuống xe và bảo H “Anh đứng ở đây đợi em một lúc, em đi có việc”. Bị cáo đi vào rừng thuộc Bản NƯ, xã NƯ, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Mông (không biết tên, địa chỉ). Bị cáo hỏi “Có Heroine bán không? Bán cho 150.000 đồng”, người đàn ông trả lời “Có, đưa tiền đây?”. Bị cáo lấy ra từ trong túi quần bên phải đang mặc số tiền 150.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền của Bị cáo đưa rồi đưa lại cho Bị cáo 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng, miệng gói được hơ lửa hàn kín, bên trong có 01 cục bột Heroine. Bị cáo cầm gói Heroine xem bên trong có Heroine rồi đồng ý mua. Trao đổi mua bán xong người đàn ông đi đâu, làm gì Bị cáo không biết. Bị cáo cầm gói Heroine ở tay trái rồi quay lại chỗ H dứng chờ. H lấy xe mô tô chở Bị cáo Đ ngồi sau xuống quán để mua nước rồi đi về. H và Đ đi đến khu vực Bản NƯ, xã NƯ, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên gặp tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Quốc tế Tây Trang và Công an huyện ĐB đang làm nhiệm vụ tại đó, tổ công tác yêu cầu H và Đ dừng xe lại để kiểm tra. Kiểm tra người H không phát hiện thu giữ gì. Kiểm tra người Đ tổ công tác phát hiện thu giữ tại tay pH Đ đang cầm 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng, miệng gói được hơ lửa hàn kín, bên trong có 01 cục bột màu trắng nghi Heroine, ngoài ra tổ công tác không phát hiện thu giữ gì Kc. Tổ công tác đã mời người chứng kiến đến tiến hành kiểm tra chiếc xe mô tô BKS 27P1-xxxxx mà H điều khiển qua kiểm tra không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng đối với Bị cáo theo quy định của pháp luật. Sau khi hoàn tất thủ tục tổ công tác đưa Bị cáo cùng toàn bộ hồ sơ vật chứng vụ án đến Cơ quan CSĐT Công an huyện ĐB để điều tra làm rõ.

Ngày 18/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB tiến hành cân xác định khối lượng số vật chứng thu giữ của Lò Văn Đ như sau: Mẫu cục bột màu trắng nghi Heroine có khối lượng là: 0,26 gam gửi toàn bộ giám định.

Tại bản kết luận giám định số: 1035/KL-KTHS ngày 24/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu cục bột màu trắng được gửi đi từ vật chứng thu giữ của Lò Văn Đ gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine. Khối lượng hoàn lại sau giám định là 0,21 gam.

Tại bản cáo trạng số: 192/CT-VKSĐB ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB truy tố bị cáo Lò Văn Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 05 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: 0,21 gam Heroine là vật chứng hoàn lại sau giám định.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí HSST cho Bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo không trình bày lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 12 giờ ngày 17/7/2022 tại khu vực Bản NƯ, xã NƯ, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Lò Văn Đ đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,26 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

… c)....Heroine....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.

[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt Kc ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm Kc, Bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết pH áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã MM, huyện TG, tỉnh Điện Biên được gia đình nuôi dưỡng học hết lớp 7/12 sau đó bỏ học ở nhà phụ giúp gia đình.

- Năm 2018, Bị cáo đăng ký kết hôn với Quàng Thị Hoa và có với nhau 01 người con sinh năm 2017.

Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của Bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án gồm: 0,21 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Các vấn đề Kc:

Đối với người đàn ông dân tộc Mông bán ma túy cho Bị cáo. Bị cáo không biết tên, địa chỉ. Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện ĐB, tỉnh Điện Biên và Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên không đề cập trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với Nguyễn Văn H là người chở Bị cáo đi mua nước, trên đường đi Bị cáo bảo H dừng lại dọc đường đứng chờ để đi có việc rồi đi bộ vào rừng. H không biết việc Bị cáo đi mua Heroine và đang cất giấu trong người. Sau đó H chở Bị cáo tiếp tục đi mua nước uống. Khi H chở Bị cáo về thì gặp tổ công tác kiểm tra phát hiện thu giữ tại tay phải Bị cáo có Heroine. Lúc đó H mới biết là trong người Bị cáo có Heroine, sau khi Km xét xe moto cũng không phát hiện có cất giấu ma túy, Tổ Công tác cũng không thu giữ phương tiện của H, quá trình điều tra cũng cho rằng H không liên quan đến hành vi phạm tội của Bị cáo. Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện ĐB, tỉnh Điện Biên và Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên không đề cập trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:

Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[8] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí HSST cho Bị cáo vì Bị cáo là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.

[9] Về Kng cáo: Bị cáo quyền Kng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn Đ phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 01 năm 05 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (17/7/2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

* Tịch thu tiêu hủy: 0,21 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB và Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB, tỉnh Điện Biên).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí HSST cho Bị cáo.

4. Về quyền Kng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền Kng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 273/2022/HS-ST

Số hiệu:273/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về