Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 188/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 188/2022/HS-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 23 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 190/2022/TL- HSST ngày 31 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022.

Họ và tên: Trần Anh D; Tên gọi khác: Trần Văn D;

Sinh năm: 1972 tại Điện Biên;

Nơi cư trú: Số nhà 83, tổ 8, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên;

Nghề nghiệp: Tự do;

Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Trần Xuân T (đã chết) và con bà: Trần Thị K;

Vợ con: Không;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bị cáo có 03 tiền án nhưng đã được xóa án tích (Ngày 28/9/1995 bị Tòa án nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng tù, về tội: "Trộm cắp tài sản"; ngày 18/5/2004 bị Tòa án nhân dân thị xã Lai Châu, tỉnh Lai Châu xử phạt 36 tháng tù, về tội: Vận chuyển trái phép chất ma túy và ngày 12/7/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xử phạt 15 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản") và 01 tiền sự nhưng đã được xóa tiền sự (Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục ngày 22/5/2000 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu thời hạn 24 tháng); Ngày 27/9/1997 bị Công an thị xã Lai Châu bắt về hành vi: Chống người thi hành công vụ và Trộm cắp tài sản của công dân, không có hình thức xử lý; Ngày 14/3/2000 bị Công an thị xã Lai Châu bắt về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma túy, không có hình thức xử lý.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/02/2022, sau đó bị tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 23/02/2022, Trần Anh D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27B1-30911 của mình đi từ nhà ở tổ 8, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên đến bản N, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến bãi rác thuộc bản N, D gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Kinh, khoảng 45 tuổi (không rõ lai lịch) 03 túi Methamphetamine được gói ngoài bằng nilon màu xanh, miệng có nẹp bấm cố định với giá 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng). Mua bán xong người đó đi đâu D không biết, còn D cất giấu số ma túy vào túi áo khoác bên trái, phía trước đang mặc rồi điều khiển xe mô tô về nhà. Hồi 19 giờ cùng ngày, khi D đi đến đầu bản N thì bị tổ công tác Công an xã Thanh Yên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 03 túi Methamphetamine (có đặc điểm như trên) khối lượng 62,14 gam và 01 xe mô tô Biển kiểm soát 27B1-30911.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 23/02/2022 đã xác định: Khối lượng 05 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp thu giữ của Quàng Văn Phương có khối lượng là 62,14 gam, gửi toàn bộ giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 363/KL-KTHS ngày 03/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Trần Anh D gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng vật chứng thu giữ của D gồm: 62,14 gam viên Methamphetamine (đã gửi giám định toàn bộ).

Tại biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 14/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên: Hoàn lại mẫu sau khi giám định là: 45,1 gam Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Về vật chứng của vụ án: Ngày 31/5/2022 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên gồm: 45,1 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVERSX, màu đỏ, đen biển kiểm soát 27B1- 309.11.

Bản cáo trạng số: 106/CT-VKSĐB ngày 30/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Trần Anh D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Anh D với mức hình phạt từ 11 năm 06 tháng đến 12 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Tịch thu tiêu hủy 45,1 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVERSX, màu đỏ, đen biển kiểm soát 27B1- 309.11 mang tên Trần Anh D (xe cũ đã qua sử dụng).

* Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Anh D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Trần Anh D đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa Trần Anh D khai nhận vào hồi 19 giờ 00 phút ngày 23/02/2022 tại khu vực bản N, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, Trần Anh D có hành vi cất giấu trái phép trên người 62,14 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Số ma túy trên là do D mua của một người đàn ông dân tộc Kinh, khoảng 45 tuổi (không rõ lai lịch) tại bản N, xã Th, huyện Đ với giá với giá 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: … 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: … b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XRL-11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam”.

Trần Anh D là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Trần Anh D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Trong vụ án này Trần Anh D không có tình tiết tăng nặng, không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân rất xấu bởi trước đó bị cáo đã từng có 01 tiền sự nhưng đã được xóa tiền sự (Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục số: 476/QĐ-UB ngày 22/5/2000 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu thời hạn 24 tháng; ngày 24/10/2002 chấp hành xong) và có 03 tiền án nhưng đã được xóa án tích (Bản án số:

23/HSST ngày 28/9/1995 bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản; Bản án số: 01/HSST ngày 18/5/2004 bị Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Lai Châu xử phạt 36 tháng tù, về tội: Vận chuyển trái phép chất ma túy và Bản án số: 62/2011/HSST ngày 12/7/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên xử phạt 15 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản); ngày 05/7/2012 bị cáo chấp hành xong án phạt tù và trở về địa phương sinh sống; cho đến nay bị cáo đã chấp hành xong phần án phí và quyết định khác của các bản án trên. Ngày 27/9/1997 bị cáo bị Công an thị xã L bắt về hành vi: Chống người thi hành công vụ và Trộm cắp tài sản của công dân, không có hình thức xử lý; Ngày 14/3/2000 bị Công an thị xã L bắt về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma túy, không có hình thức xử lý. Nguyên nhân dẫn đến phạm tội là do bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, nghiện sử dụng ma túy từ năm 1990 cho đến nay, vì muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật dấn thân vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, mặt khác bố của bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì và mẹ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.Vì vậy, để thể hiện sự khoan hồng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo từ bỏ được ma túy sớm trở lại hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

Về tên gọi khác của bị cáo: Quá trình điều tra và truy tố Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xác định bị cáo không có tên gọi khác. Tuy nhiên, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ như: Công văn số: 120/CV ngày 06/5/2022 về việc tra cứu vân tay của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên (BL: 107); Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục số: 476/QĐ-UB ngày 12/12/2005 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (BL: 91); Trích lục tiền án, tiền sự số: 619767/2022/PV06 ngày 06/5/2022 của Phòng hồ sơ nghiệp vụ Công an tỉnh Điện Biên (BL:

148) và căn cứ vào lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa thì có đủ căn cứ xác định Trần Anh D và Trần Văn D là cùng một người và có vân tay đồng nhất của cùng một người. Do đó, Hội đồng xét xử xác định bị cáo Trần Anh D có tên gọi khác là Trần Văn D.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt từ 11 năm 06 tháng đến 12 năm tù đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[4] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 45,1 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi giám định, Hội đồng xét xử cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVERSX, màu đỏ, đen biển kiểm soát 27B1- 309.11 mang tên Trần Anh D, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo hoàn toàn thừa nhận đã dùng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà Nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

[6] Về các vấn đề khác: Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ theo lời khai của bị cáo đã mua của của một người đàn ông dân tộc Kinh, khoảng 45 tuổi (không rõ lai lịch) nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người này.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Anh D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Trần Anh D (Tên gọi khác: Trần Văn D) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo: Trần Anh D (Tên gọi khác: Trần Văn D) 11 (Mười một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (23/02/2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 4,51 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định là vật chứng của vụ án.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVERSX, màu đỏ, đen biển kiểm soát 27B1- 309.11, số máy: JA32E1093891, số khung RLHJA3210EY052147 mang tên Trần Anh D (xe cũ đã qua sử dụng).

Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/5/2022 giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Anh D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Trần Anh D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (23/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 188/2022/HS-ST

Số hiệu:188/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về