Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN BÀN, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 18/2022/HS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2022/ TLST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2022 theo  Q định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Lê Văn Q, sinh ngày 08/8/1988, tại huyện V, tỉnh T.

Nơi ĐKNKTT: Khu 1, thị trấn V, huyện V, tỉnh T. Nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện V, Y.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 3/12.

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Lê Văn T, sinh năm 1961; con bà: Trương Thị T, sinh năm 1964.

Vợ: Phạm Thị T, sinh năm 1990 (đã ly hôn); Năm 2019 chung sống như vợ chồng với chị Đặng Thị D, sinh năm 1988. Hiện trú tại xã C, huyên V, tỉnh Y; Bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2020, hiện trú tại thị trấn V, huyện V, tỉnh T và xã C, huyện V, tỉnh Y.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Là người có sử dụng chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2022 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Văn Bàn - Có mặt tại phiên tòa.

2. Đặng Văn C, sinh ngày 08/9/2002, tại huyện V, tỉnh Y. Nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện V, Y.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12.

Dân tộc: Phù Lá; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Đặng V, sinh năm 1973 (đã chết); con bà Đặng Thị L, sinh năm 1966. Hiện trú tại xã C, huyện V, tỉnh Y.

Bị cáo chưa có vợ, con.

Nhân thân: Tốt. Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2022 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Văn Bàn - Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đặng Thị L, sinh năm 1966. Nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện V, tỉnh Y - Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Hầu Seo S, sinh năm 1988. Nơi cư trú: Thôn N, xã K, huyện V, L - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 15 ngày 18/01/2022 tổ công tác đội điều tra tổng hợp và đội CSGT Công an huyên Văn Bàn, đang tuần tra kiểm soát trên quốc lộ 279 thuộc địa phận thôn V xã K; phát hiện 2 thanh niên đi xe mô tô BKS 21 E1 - 332.xx có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, nên đã ra hiệu dừng xe để kiểm tra và yêu cầu khai báo tên tuổi địa chỉ, nếu có tài liệu đồ vật gì liên quan đến ma túy thì trự giác giao nộp, Nam thanh niên điều khiển xe khai tên là Lê Văn Q và tự giác lấy từ túi áo ngực phía trong bên phải đang mặc ra 01 gói ni lon màu đỏ, bên trong là gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục giao nộp và khai là ma túy của Q để sử dụng; người ngồi sau khai tên là Đăng Văn C và khai nhận cùng Q đi mua ma túy đang trên đường đi về. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng. Ngoài ra tạm giữ của Q 01 điện thoại hiệu NOKIA 1280 có số seri 356713054200645; tạm giữ của Chiến 01 điện thoại VIVO Y15S có số Imei 1: 867251053145380; Imei 2: 867251053145398; 01 xe mô tô biển kiểm soát 21 E1 - 332.xx; Tiến hành khám xét chỗ ở của Lê Văn Q và Đặng Văn C nhưng không phát hiện và thu giữ gì.

Về nguồn gốc số ma túy Lê Văn Q và Đặng Văn C khai nhận khoảng 09 giờ 00 ngày 18/01/2022 Q rủ C đi chơi C dùng xe mô tô biển kiểm soát 21 E1- 332.xx chở Q đi khi đi đến xã B, B Q bảo C đi vào V tìm mua ma túy về sử dụng, C đồng ý điều khiển xe mô tô chở Q đi V theo hướng dẫn của Q khi đi đến xã K, Q bảo C dừng xe C xuống xe đứng ở đường đợi, Q điều khiển xe đi theo đường bê tông thuộc xã K, gặp và mua của một người đàn ông không quen biết tự giới thiệu tên là V được 01 gói ma túy gói bằng ni lon màu đỏ giá 1.800.000đ, Q cất gói ma túy vào túi áo ngực phía trong bên phải, rồi điều khiển xe quay lại đón C đi về, khi đi đến Quốc lộ 279 thuộc thôn V, xã K thì bị Công an kiểm tra phát hiện và bắt quả tang.

Kết luận giám định số 49 ngày 22/01/2022 của Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai; Kết luận: Tổng số 1,92 gam chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của Lê Văn Q gửi giám định là chất ma túy Heroine.

*Tại bản Cáo trạng số: 09/CT-VKS ngày 06/4/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, quyết định truy tố các bị cáo Lê Văn Q, Đặng Văn C ra trước Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lê Văn Q, Đặng Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.”

* Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Lê Văn Q từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 09 tháng tù.

+ Xử phạt bị cáo Đặng Văn C từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

* Về vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 1,81 gam Heroine còn lại sau giám định đã thu giữ của Lê Văn Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi các bị cáo bị truy tố, tại phiên tòa các bị cáo khai nhận:

Khoảng 09 giờ 00 ngày 18/01/2022 Đặng Văn C dùng xe mô tô biển kiểm soát 21 E1- 332.xx chở Lê Văn Q đi chơi khi đi đến xã B, huyện B, Q bảo C đi vào huyện V tìm mua ma túy về cùng nhau sử dụng, C đồng ý điều khiển xe mô tô chở Q đi vào huyện V, khi đi đến xã K, Q bảo C dừng xe và đứng ở đường đợi còn Q lấy xe điều khiển đi theo đường bê tông thuộc xã K, gặp và mua của một người đàn ông không quen biết tự giới thiệu tên là V được 01 gói Heroine có khối lượng 1,92gam gói ngoài bằng ni lon màu đỏ với giá 1.800.000đ. Mua được ma túy Q cất giấu vào túi áo ngực phía trong bên phải, rồi điều khiển xe quay lại đón C đi về, khi đi đến Quốc lộ 279 thuộc thôn V, xã K thì bị Công an kiểm tra Lê Văn Q tự giác lấy từ túi áo ngực phía trong bên phải đang mặc ra gói Heroine vừa mua giao nộp.

Như vậy, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Lê Văn Q, Đặng Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, bị cáo Lê Văn Q là người khởi xướng bỏ tiền ra và rủ Đặng Văn C cùng đi mua 1,92 gam Heroine, mục đích để cùng nhau sử dụng. Do vậy, Lê Văn Q phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án với vai trò là người thực hành. Khi  Q rủ đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng, Đặng Văn C đã đồng ý và điều khiển xe mô tô chở  Q đi vào Văn Bàn để mua ma túy do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với Lê Văn Q với vai trò người thực hành.

[3] Hội đồng đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo: Hành vi của các bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy. Các bị cáo hiểu rõ ma túy là loại độc dược nguy hiểm ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Là người khỏe mạnh nhưng các bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân nên đã dủ nhau đi mua ma túy để sử dụng. Nên xét cần có một hình phạt thật nghiêm khắc và đối với Lê Văn Q là người khởi xướng và bỏ tiền ra trực tiếp mua ma túy nên cần phạt bổ sung một khoản tiền sung Ngân sách Nhà nước để cải tạo giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[4] Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo trong quá trình điều tra truy tố và xét xử, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Đặng Văn C có ông nội được thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Các bị cáo sống bằng nghề tự do nên giảm nhẹ một phần hình phạt tù và hình phạt bổ sung đối với các bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về vật chứng:

- Khối lượng Heroine thu giữ của Lê Văn Q là 1,92gam, cơ quan điều tra gửi giám định, cơ quan giám định lưu mẫu 0,11gam còn lại 1,81 gam Heroine cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 24 E1- 332.xx quá trình điều tra xác định là của bà Đặng Thị L mẹ đẻ của bị cáo C ngày 18/01/2022 C lấy xe đi mua ma túy bà L không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại hiệu NOKIA 1280 có số seri 356713054200645 thu giữ của Lê Văn Q và 01 điện thoại VIVO Y15S có số Imei 1: 867251053145380; Imei 2: 867251053145398 thu giữ của Đặng Văn C dùng để liên lạc hàng ngày, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho các bị cáo là có căn cứ.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Đối với người đàn ông tên V đã bán ma túy cho Q ngày 18/01/2022 quá trình điều tra không xác định được họ, tên địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lê Văn Q, Đặng Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn Q 02 (hai) năm 05 (năm) tháng tù và phạt 5.000.000đ (năm triệu đồng) sung Ngân sách Nhà nước. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/01/2022 ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Văn C 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/01/2022 ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 1,81 gam Heroine còn lại sau giám định thu giữ của bị cáo Lê Văn Q được đựng trong 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên một mặt của bì có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ của Lê Văn Q ngày 18/01/2022 tại xã K, huyện V, tỉnh L”. Mặt còn lại của bì có các chữ ký và dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Các bị cáo Lê Văn Q, Đặng Văn C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6, điều 7, điều 7a, 7b, 7c và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2022/HS-ST

Số hiệu:18/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Bàn - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về