Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 167/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 167/2022/HS-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 160/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. TVL, sinh năm 2000 tại Thanh Hóa; Thường trú: Tổ dân phố DĐH, thị trấn PS, huyện CT, tỉnh TH; chỗ ở: Nhà trọ Tư Mai, khu phố BT2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông NVS, sinh năm: Không rõ và bà TTL, sinh năm 1977, bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/11/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. DVS, sinh năm 1996 tại An Giang; thường trú: ấp VA, xã VT, huyện TS, tỉnh AG; chỗ ở: Đường TG 01, khu phố BT2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông DMT, sinh năm 1975 và bà LTL1, sinh năm 1977; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/11/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

3. HĐC, sinh năm 1986 tại Thanh Hóa; Thường trú: Thôn TD, xã VH, huyện NC, tỉnh TH chỗ ở: khu phố BP, phường BC, thành phố TA, tỉnh BD; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông HĐB, sinh năm 1953 và bà LTM1, sinh năm 1953; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/11/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

4. HD, sinh ngày 29/7/2004 tại Quảng Bình; thường trú: Bản KA, xã DH, huyện MH, tỉnh QB; chỗ ở: Tổ 1, khu phố BP, phường BC, thành phố TA, tỉnh BD; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Chứt; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông HX, sinh năm 1979 và bà HTX1, sinh năm 1975; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 21/11/2021 đến ngày 01/12/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn, bắt tạm giam lại ngày 25/5/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông HV, sinh năm 1990; thường trú: Bản KA, xã DH, huyện MH, tỉnh QB, vắng mặt.

- Người làm chứng: Đỗ Nhật Trường, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 21/11/2021, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Thuận An phối hợp với Công an phường Thuận Giao tiến hành tuần tra theo quy định. Khi đi đến khu vực ngã ba giao nhau giữa đường Thuận Giao 01 và đường Thuận An Hòa thuộc khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện HĐC, HD, DCS và TĐL đang ngồi và đứng trên xe môtô biển số 94R2- xxxx có biểu hiện nghi vấn về hoạt động mua bán trái phép chất ma túy. Lúc này, lực lượng chức năng nhìn thấy C đang đưa tiền cho L nên tiến hành kiểm tra, bất ngờ L bỏ chạy khoảng 10m thì bị lực lượng chức năng bắt giữ, đồng thời phát hiện ngay phía dưới đường tại vị trí L đang đứng có 01 (một) vỏ bao thuốc lá Yett đựng 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng và 02 (hai) nỏ thủy tinh. Lúc này L,S,C,D đều khai nhận là đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý, lực lượng chức năng đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với DVS và TĐL về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy; HĐC và HD về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) xe mô tô biển số 94R2-xxxx; 01 (một) vỏ bao thuốc lá Yett; 01 (một) túi nylon miệng kéo dính viền đỏ chứa tinh thể màu trắng; 02 (hai) nỏ thủy tinh và số tiền 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng).

Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 21/11/2021 khi C đang ở phòng trọ tại Công ty cùng với D thì có nhu cầu sửa dụng ma túy nhưng không biết nơi nào bán nên C có hỏi D và nhờ D mua giùm 1.000.000 đồng tiền ma túy, D đồng ý và dùng mạng Messenge Facebook gọi cho Lg hỏi mua ma túy với giá 1.000.000 đồng, đồng thời C có hỏi mua của L 01 (một) nỏ thủy tinh thì được L đồng ý và hẹn D, C đến tại ngã ba Bình Chuẩn để tiến hành việc giao dịch mua bán. Lúc này đang ở cùng phòng trọ của S thì L liền hỏi S có ma túy thì bán cho L 1.000.000 đồng thì được S đồng ý và đưa cho L 01 (một) túi nylon chứa ma túy đá. Liền sau đó L điều khiển xe môtô của Sang đi đến địa điểm đã hẹn để bán ma túy cho D và C, tuy nhiên khi đến điểm hẹn, L không liên lạc được với D nên cả hai quay về phòng trọ của S. D lại tiếp tục dùng mạng Messenge Facebook gọi cho L hỏi có ma túy chưa thì L nói với D đến ngã ba đường Thuận Giao 01 để tiến hành việc giao dịch mua bán ma túy. Khoảng 15 phút sau L và S đi bộ ra chỗ hẹn thì thấy D điều khiển xe môtô biển số 94R2- xxxx chở theo C. Tại đây L báo cho S biết số tiền ma túy mà S mua của L là 1.000.000 đồng và 02 (hai) cái nỏ là 100.000 đồng. Nghe L nói vậy C đã đưa cho L số tiền 1.200.000 đồng, L đưa lại tiền thừa 100.000 đồng cho X thì bi lực lượng chức năng phát hiện, thấy vậy L bỏ chạy được 10m, vừa bỏ chạy L vừa lấy từ túi quần phía trước bên trái đang mặc ra 01 (một) vỏ bao thuốc lá Yett đựng 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng và 02 (hai) nỏ thủy tinh ném xuống đường thì bị lực lượng chức năng bắt giữ như trên.

Nguồn gốc ma túy thu giữ, quá trình điều tra xác định: DVS có quen biết với một người bạn tên T (không rõ đặc điểm nhận dạng), ngày 20/11/2021 S hỏi T để mượn tiền, tuy nhiên do không có tiền nên T đưa cho S 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, T nói với S là ma túy và kiếm người bán để lấy tiền tiêu xài. Sau đó, S cất giấu trong người, đến khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 21/11/2021 thì L và S cùng thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Cvà D thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang.

Bản kết luận giám định số 757/MT-PC09 ngày 26/11/2021 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6579gam, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 158/CT-VKS ngày 17/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo TVL và bị cáo DVS về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; bị HĐC và bị cáo HD về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An trình bày lời luận tội trong đó có nội dung giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị xử phạt bị cáo TVL mức hình phạt từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị xử phạt bị cáo DVS mức hình phạt từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị xử phạt bị cáo HĐC mức hình phạt từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị xử phạt bị cáo HD mức hình phạt từ 01 (một) năm đến 01 (một) 03 (ba) tháng tù.

- Về vật chứng:

+ Đối với 01 (một) bì thư niêm phong ghi vụ số 757/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Yett; 02 (hai) nỏ thủy tinh thu giữ trong vụ án đề nghị tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với số tiền 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng) thu giữ của HĐC, quá trình điều tra xac định là tiền dùng để thực hiện việc giao dịch mua bán ma túy đối với TVL, đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước.

+ Đối với xe mô tô kiểu dáng Taurus biển số 94R2 - xxxx thu giữ của HD, quá trình điều tra HD khai nhận đã mượn chiếc xe trên của anh ruột tên HV, Qua làm việc HV khai nhận xe mô tô trên là của V, vào khoảng đầu năm 2021, V mua tại tiệm cầm đồ ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh (không rõ địa chỉ cụ thể). Quá trình mua bán không lập hợp đồng mua bán xe và không có giấy chứng nhận đăng ký xe. Tiến hành tra cứu, xác minh chủ phương tiện giao thông cơ giới xác định bà TTH đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã ủy thác cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu để làm rõ về nguồn gốc chủ sở hữu chiếc xe mô tô trên nhưng cho đến nay chưa nhận được công văn phúc đáp trả lời. Cơ quan điều tra đã giám định số khung, số máy đối với xe mô tô nêu trên, tra cứu trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng và thông báo truy tìm chủ sở hữu hợp pháp đối với xe mô tô nêu trên nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến liên hệ giải quyết. Do đó, cần tiếp tục giao xe mô tô biển số 94R2 - xxxx cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý theo quy định.

+ Đối với người đàn phụ nữ tên T đã cho DVS ma tuý, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng hiện chưa rõ nhân thân, địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

- Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ý kiến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông HV trong quá trình điều tra: Không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, các bị cáo TĐL, DVS, HĐC, HD đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 21/11/2021, tại khu vực ngã ba giao nhau giữa đường Thuận Giao 01 và đường Thuận An Hòa thuộc khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo TVL và bị cáo DVS đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng 0,6579 gam; Loại Methamphetamine cho HĐC và HD. Hành vi của HĐCvà HD mua ma tuý nhằm mục đích sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo TĐL, bị cáo DVS về hành vi mua bán trái phéo chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); bị cáo HĐC, bị cáo HD về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, tạo gánh nặng cho xã hội. Bản thân các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được tác hại của ma túy, biết rằng việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm và sẽ bị trừng trị nhưng các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Do đó việc đưa các bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần xử phạt các bị cáo với mức án phù hợp, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm về ma túy diễn ra ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, để lại những hậu quả nặng nề, gây nhiều bức xúc cho xã hội.

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện, do đó vai trò của các bị cáo là ngang nhau.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo HD có trình độ học vấn thấp, là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, do đó Hội đồng xét xử sẽ áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo.

Theo kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 1757/C09B ngày 30/3/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh bị cáo HD có độ tuổi tại thời điểm giám định tháng 3/2022 là 17 năm 04 tháng đến 17 năm 10 tháng nên tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 21/11/2021 bị cáo chưa đủ 18 tuổi. Do đó, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị áp dụng Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và đề nghị xử phạt bị cáo HD mức hình phạt như trên là phù hợp do đó Hội đồng xét xử sẽ áp dụng dụng Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét hình phạt đối với bị cáo.

Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đối với các bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.

[5]. Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 (một) bì thư niêm phong ghi vụ số 757/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu YETT; 02 (hai) nỏ thủy tinh thu giữ trong vụ án do đó cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với số tiền 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng) thu giữ của HĐC, quá trình điều tra xac định là tiền dùng để thực hiện việc giao dịch mua bán ma túy đối với TVL, do đó cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

+ Đối với xe mô tô kiểu dáng Taurus biển số 94R2 - xxxx thu giữ của Hồ Dục, quá trình điều tra HD khai nhận đã mượn chiếc xe trên của anh ruột tên HVt. Qua làm việc HV khai nhận xe mô tô trên là của V, vào khoảng đầu năm 2021, V mua tại tiệm cầm đồ ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh (không rõ địa chỉ cụ thể). Quá trình mua bán không lập hợp đồng mua bán xe và không có giấy chứng nhận đăng ký xe. Tiến hành tra cứu, xác minh chủ phương tiện giao thông cơ giới xác định bà TTH đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã ủy thác cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu để làm rõ về nguồn gốc chủ sở hữu chiếc xe mô tô trên nhưng cho đến nay chưa nhận được công văn phúc đáp trả lời. Cơ quan điều tra đã giám định số khung, số máy đối với xe mô tô nêu trên, tra cứu trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng và thông báo truy tìm chủ sở hữu hợp pháp đối với xe mô tô nêu trên nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến liên hệ giải quyết. Do đó, cần tiếp tục giao xe mô tô biển số 94R2 - xxxx cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý theo quy định.

+ Đối với đối tượng tên T đã cho DVS ma tuý, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng hiện chưa rõ nhân thân, địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

[6]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 251; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo TĐL, DVS

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo HĐC

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo HD - Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo TVL và bị cáo DVS phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tuyên bố bị cáo HĐC và bị cáo HD phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo TVL 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2021.

Xử phạt bị cáo DCS 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2021.

Xử phạt bị cáo HĐC 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2021.

Xử phạt bị cáo HD 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/5/2022, được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 21/11/2021 đến ngày 01/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong ghi vụ số 757/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu YETT; 02 (hai) nỏ thủy tinh.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng).

+ Giao xe mô tô 02 bánh (kiểu dáng Taurus), nhãn hiệu YAMAI-TAX số loại 110A xy lanh 107cm3 mang biển kiểm soát biển số 94R2 – xxxx, số khung RP2WCH4UM9AD 08877, số máy RL8PD152FMH*008877* cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý theo quy định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/5/2022 và giấy ủy nhiệm chi ngày 19/5/2022.)

4. Về án phí sơ thẩm: Buộc các bị cáo TVL, DVS, HĐC, HD, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 167/2022/HS-ST

Số hiệu:167/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về