Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 166/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 166/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số: 168/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Bế Thành C (tên gọi khác: Không) - Sinh năm: 1984; Nơi sinh: Tại tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKTT và Chỗ ở trước ngày bị bắt: Bản H, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bế Đình S (đã chết) và bà Đỗ Thị K; Vợ Cà Thị T (đã chết); Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2011.

Tiền án; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 19/6/2012, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (Bản án hình sự sơ thẩm số 142/2012/HSST), ngày 15/11/2013 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, ngày 19/6/2012 bị cáo đã chấp hành xong án phí. Ngày 20/11/2015, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2015/HSST), ngày 10/10/2018, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, ngày 20/11/2015 bị cáo đã chấp hành xong án phí. Tính đến ngày 13/6/2022 bị cáo đương nhiên được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/6/2022, sau đó bị tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 15 phút ngày 13/6/2022, tổ C tác C an xã Nà Tấu, thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực bản Nà Luống, xã Nà Tấu, thành phố Đ phát hiện Bế Thành C đang đi bộ trên đường theo hướng từ bản Cang đến bản Nà Luống, xã Nà Tấu có biểu hiện phạm tội về ma túy. Tổ C tác yêu cầu kiểm tra, C tự giác lấy từ túi quần trước bên phải đang mặc 01 gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa 0,04 gam Heroine và 01 gói ngoài bằng vỏ kẹo màu xanh bên trong có 02 gói gồm 01 gói bằng nilon màu trắng chứa 08 viên hồng phiến loại Methamphetamine có khối lượng 0,75 gam và 01 gói bằng nilon màu hồng chứa 04 viên hồng phiến loại Methamphetamine có khối lượng 0,39 gam giao nộp cho tổ C tác. C khai số ma túy trên C mua của người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đứng ở đường tại bản Lọng Luông 2, xã Mường Phăng, thành phố Đ vào khoảng 10 giờ cùng ngày, với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Trên đường về nhà thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại Bản kết luận giám định số 845/KL-KTHS ngày 21/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh Điện Biên, kết luận: Khối lượng vật chứng M1:

0,04gam; M2: 0,75 gam; M3: 0,39 gam. Mẫu vật ký hiệu M1 gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Mẫu vật ký hiệu M2, M3 gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định M1: 0,015 gam; M2:

0,7 gam; M3: 0,36 gam Tại Bản cáo trạng số: 115/CT-VKSTPĐBP ngày 08/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Bế Thành C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên giữ quyền C tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và khẳng định hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 21 đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,015 gam Heroine; 1,06 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng; 01 (một) vỏ kẹo màu xanh; 01 (một) mảnh nilon màu trắng; 01 (một) mảnh nilon màu hồng.

Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Hồi 12 giờ 15 phút ngày 13/6/2022, tại khu vực bản Nà Luống, xã Nà Tấu, thành phố Đ, Bế Thành C đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,04 gam Heroine và 1,14 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[2] Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và cộng đồng cũng như nhận thức được chính sách pháp luật hình sự của nhà nước đối với những hành vi mua bán, tàng trữ ... trái phép chất ma túy nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội lớn, không những xâm phạm những quy định của nhà nước về chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Đ. Do vậy, cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo đã 02 lần bị Toà án xử phạt về tội Mua bán trái phép chất ma tuý, tính đến ngày 13/6/2022, bị cáo đương nhiên được xóa án tích nhưng là người có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại giai đoạn điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 21 đến 24 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan.

[7] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[9] Các vấn đề khác:

Bị cáo khai mua ma túy của người đàn ông không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý trong vụ án.

[10] Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,015 gam Heroine; 1,06 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng; 01 (một) vỏ kẹo màu xanh; 01 (một) mảnh nilon màu trắng; 01 (một) mảnh nilon màu hồng, do là vật nhà nước cấm tàng trữ, vật không có giá trị.

[11] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Bế Thành C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bế Thành C 01 (một) năm 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 13/6/2022).

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,015 gam Heroine; 1,06 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định); 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng; 01 (một) vỏ kẹo màu xanh; 01 (một) mảnh nilon màu trắng; 01 (một) mảnh nilon màu hồng.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/9/2022 giữa cơ quan cảnh sát điều tra, C an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/9/2022). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 166/2022/HS-ST

Số hiệu:166/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về