Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 31/3/2022 tại điểm cầu trung tâm Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh với điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2022/HSST, ngày 15/3/2022; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HS, ngày 17/3/2022 và Thông báo mở lại phiên tòa số: 08/2022/TB-TA, ngày 30/3/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức T; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 04/02/1990; quê quán: Huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Tổ dân phố 01, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hồng T và bà Nguyễn Thị N; anh chị em ruột có 02 người (bị cáo là con thứ hai); Chức vụ chính quyền, đoàn thể: Không; Vợ, con: Chưa;

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 19/8/2016 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án số: 28/2016/HS-ST, đã chấp hành xong và xóa án tích; Ngày 18/3/2019 bị Chủ tịch UBND thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường Quyết định số: 41/QĐ-CTUBND, chấp hành xong; Ngày 10/6/2019 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Quyết định số: 01/QĐ-TA, chấp hành xong; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 21/12/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay. Có mặt.

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Hồng T; sinh năm: 1956. Cư trú: Tổ dân phố 01, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

* Người chứng kiến: Ông Phan Văn B; sinh năm: 1962. Cư trú: Tổ dân phố 01, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần sử dụng ma túy, khoảng 06 giờ, ngày 15/12/2021, Nguyễn Đức T, sinh năm 1990, trú tại tổ dân phố 01, thị trấn P, huyện H đón xe khách ra thành phố V, tỉnh Nghệ An mua ma tuý về sử dụng. Khi đến bến xe thành phố V, T gặp một người đàn ông hành nghề xe ôm mà T quen mặt nhưng không biết tên, địa chỉ. Qua nói chuyện, biết người này có ma túy bán nên T đặt vấn đề mua 500.000 đồng tiền Heroine, người này đồng ý và dặn T chờ. Khoảng 10 phút sau, người này quay lại đưa cho T 01gói ni lông màu đen, biết bên trong có chứa ma túy nên T trả tiền rồi mang về nhà. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày khi về đến nhà, T mở kiểm tra thấy bên trong gói ni lông màu đen có 09 gói giấy thiếc màu bạc và một gói ni lông trong suốt đều chứa chất bột nén màu trắng. T lấy 01 gói giấy thiếc chứa chất bột nén màu trắng sử dụng hết. Số còn lại T cất giấu trong đôi giày vải để ở trên đống gỗ trong phòng lồi gia đình.

Khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, T lấy 06 gói giấy thiếc màu bạc bên trong chứa chất bột nén màu trắng cất giấu trong đôi giày vải trước đó rồi quấn lớp giấy vệ sinh bên ngoài, sau đó xé lớp trong của một chiếc khẩu trang cất giấu trong đó và đeo lên miệng đi tìm địa điểm để sử dụng. Khi T đi bộ đến khu vực ngã tư giao nhau giữa đường Lê Minh H và đường Hồ Chí Minh thuộc thôn M, xã S, huyện H thì bị lực lượng chức năng kiểm tra, phát hiện tại giữa các lớp của chiếc khẩu trang màu trắng xanh mà T đang đeo trên miệng có cuộn giấy màu trắng, bên trong cuộn giấy có 06 gói giấy thiếc màu bạc bên trong đều chứa chất bột nén màu trắng. Cùng ngày, lực lượng chức năng tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Đức T phát hiện, thu giữ trong đôi giày vải trên đống gỗ ở phòng lồi có 02 gói giấy thiếc màu bạc và 01 gói ni lông trong suốt bên trong đều chứa chất bột nén màu trắng. T khai nhận, các gói thiếc màu bạc và ni lông trong suốt chứa chất bột nén màu trắng khi bắt quả tang và khi khám xét thu giữ được là ma túy, T mua về để sử dụng thì bị bắt giữ.

* Tại bản kết luận giám định số: 07/GĐMT-PC09, ngày 20/12/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự, Công an tỉnh Hà Tĩnh, kết luận: Chất bột nén màu trắng trong 02 gói giấy thiếc màu bạc thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Nguyễn Đức T (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, là Heroine, có khối lượng 0,0642 gam; Chất bột nén màu trắng trong 01 túi ni lông trong suốt (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, là Heroine, có khối lượng 0,2032 gam; Chất bột nén màu trắng trong 06 gói giấy thiếc màu bạc (ký hiệu M3) gửi giám định là ma túy, là Heroine, có khối lượng 0,1931 gam.

* Vật chứng vụ án: 0,4605 gam Heroine (đã lấy mẫu giám định 0,0702 gam) còn lại 0,3903 gam Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói được cho vào 01 phong bì thư, dán kín, trên mép dán có chữ ký các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Nguyễn Đức T; 01 chiếc khẩu trang màu trắng xanh, mặt trong bị xé rách; 01 đôi dày bằng vải, màu đen, đã qua sử dụng, đều đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại bản Cáo trạng số: 25/CT-VKS-HS, ngày 14/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử, xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 15 tháng 12 năm 2021).

- Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, để: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư màu trắng, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Nguyễn Đức T bên trong đựng toàn bộ vỏ bao gói 0,3903 gam Heroine còn lại sau khi lấy mẫu giám định; 01 chiếc khẩu trang màu trắng xanh, mặt trong bị xé rách và 01 đôi dày bằng vải, màu đen, vì đây là vật nhà nước cấm lưu hành, liên quan đến tội phạm và không có giá trị sử dụng.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Đức T không có tài sản riêng, gia đình hoàn cảnh khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố tại phiên tòa hôm nay là đúng và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những người tham gia tố tụng: Người làm chứng ông Nguyễn Hồng T và người chứng kiến ông Phan Văn B đều đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không có lý do. Bị cáo và đại diện Viện kiểm sát không yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến quá trình làm sáng tỏ diễn biến trong vụ án nên quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tình tiết định tội, định khung, tính chất mức độ hành vi phạm tội:

- Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ; phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Vì vậy có đủ cơ sở khẳng định vào khoảng 15 giờ 20 phút, ngày 15/12/2021, Nguyễn Đức T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1931 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng bị lực lượng chức năng bắt quả tang tại đường Lê Minh H thuộc thôn M, xã S, huyện H và tiến hành khám xét nơi ở của T, tại tổ dân phố 01, thị trấn P, huyện H lực lượng chức năng thu giữ được 0,2674 gam Heroine cất dấu để sử dụng. Tổng khối lượng ma túy Nguyễn Đức T tàng trữ nhằm mục đích để sử dụng là 0,4605 gam, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

- Vụ án thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý. Heroine là chất ma túy nằm trong Nghị định số: 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ, khi con người sử dụng sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ của con người nhưng để thỏa mạn cơn nghiện cho bản thân bị cáo đã bất chấp. Trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta đang xem tệ nạn ma túy là một hiểm họa, các ngành chức năng đang tập trung nhiều biện pháp để ngăn chặn và đẩy lùi hiểm họa này thì hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật. Bị cáo có tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện chăm lao động, sản xuất mà sớm rơi vào lối sống buông thả nên đã nghiện ma tuý, hành vi đó làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây hoang mang lo lắng cho mọi người.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, tiền sự, nhân thân và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, - Tình tiết tăng nặng, tiền sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và tiền sự.

- Nhân thân: Bị cáo Nguyễn Đức T có ba thân xấu: Ngày 19/8/2016 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án số: 28/2016/HS-ST, đã chấp hành xong và xóa án tích; Ngày 18/3/2019 bị Chủ tịch UBND thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường Quyết định số: 41/QĐ-CTUBND, chấp hành xong; Ngày 10/6/2019 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Quyết định số: 01/QĐ-TA, đã chấp hành xong, nhưng bị cáo không coi đây là bài học kinh nghiệm cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án nghiêm và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần.

[4] Các hành vi khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo T tại khu vực bến xe thành phố V, tỉnh Nghệ An do T không biết nhân thân, lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an huyện H không có căn cứ để điều tra xử lý, Viện kiểm sát không truy tố nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Văn H uận không có tài sản riêng, gia đình hoàn cảnh khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án, gôm: 01 phong bì thư màu trắng, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Nguyễn Đức T bên trong đựng toàn bộ vỏ bao gói 0,3903 gam Heroine còn lại sau khi lấy mẫu giám định; 01 chiếc khẩu trang màu trắng xanh, mặt trong bị xé rách và 01 đôi dày bằng vải, màu đen, đây là vật nhà nước cấm lưu hành, liên quan đến tội phạm và không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử cần căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm đề nghị xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp nhận định Hội đồng xét xử và đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Về điều luật: Căn cứ khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự ; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

* Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 15 tháng 12 năm 2021).

* Về vật chứng vụ án: Tịch thu, tiêu hủy, gồm: 01 phong bì thư màu trắng, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Nguyễn Đức T bên trong đựng toàn bộ vỏ bao gói 0,3903 gam Heroine còn lại sau khi lấy mẫu giám định; 01 chiếc khẩu trang màu trắng xanh, mặt trong bị xé rách và 01 đôi dày bằng vải, màu đen (đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/3/2022).

* Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Đức T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31 tháng 3 năm 2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về