Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 16/2022/HS -ST NGÀY 21/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21/02/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2022/TLST-HS ngày 21/01/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST-HS ngày 08/02/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T- sinh năm 1984;

Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

Nơi cư trú: thôn LT, xã NVhuyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa lớp 4/12;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Con ông: Phạm Văn Q (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị H - sinh năm 1956; Vợ: Nguyễn Thị T - sinh năm 1983.

Bị cáo có 03, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2018 Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con cả, Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 06/9/2021, Công an huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang ra quyết định xử phạt hành chính số 199/QĐXPHC về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hình thức phạt tiền, mức phạt 1.500.000 đồng, đã nộp phạt ngày 30/9/2021.

Nhân thân: Ngày 07/12/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang ra quyết định số 4395/QĐ đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người nghiện ma túy, thời hạn 12 tháng. Thi hành xong ngày 17/12/2013.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang ( có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 05/01/2022, tại thôn Đức Nghiêm, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; Công an xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa kiểm tra, bắt quả tang đối tượng Phạm Văn Tđang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: Thu tại túi quần bên trái quần Tuân đang mặc 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa bên trong có: 03 (ba) gói giấy, mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng ; 02 (hai) gói giấy mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, bên trong cả 05 (năm) gói giấy đều chứa chất cục bột màu trắng, Tuân khai là ma túy Heroine Tuân mua để sử dụng. Thu giữ tại giá để hàng phía trước xe mô tô biển kiểm soát 98M7- 0870 do Tuân điều khiển có 01 (một) túi nilon màu đen, bên trong có 02 (hai) tràng được kết nối các khối hình trụ nhỏ, nhiều màu, có dây dẫn (nghi là pháo nổ), khối lượng khoảng 1,5kg; thu giữ trên người Tuân 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng; 01 căn cước công dân mang tên Phạm Văn Tuân; 01 đăng ký mô tô, xe máy số 009502, biển kiểm soát 98M7- 0870 mang tên Trần Quốc Sinh và 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Sau khi bắt người phạm tội quả tang, Công an xã Ngọc Sơn niêm phong số vật chứng nghi là ma túy trong phong bì thư có kí hiệu “QT”; niêm phong số vật chứng nghi là pháo trong 01 hộp cát tông. Cùng ngày, Công an xã Ngọc Sơn đã bàn giao Tuân và các đồ vật đã thu giữ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hoà để giải quyết theo thẩm quyền (BL11-13).

Ngày 05/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hoà đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Tuân nhưng không thu giữ gì (BL28-29).

Ngày 05/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa ra Quyết định số 24, 25, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang giám định chất nghi là ma túy và pháo thu giữ của Phạm Văn Tuân. Tại kết luận giám định số: 21/KL-KTHS ngày 06/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận:

Trong 01 (một) phong bì ký hiệu “QT”, được niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa: Chất cục bột màu trắng đựng trong 05 (năm) gói giấy bạc (trong đó có 03 (ba) gói có mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng và 02 (hai) gói có mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng) đều là ma túy, có khối lượng 0,136 gam, loại Heroin (BL17).

Tại kết luận giám định số: 43/KL-KTHS ngày 10/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận: Trong 01(một) hộp cátông đã được niêm phong gửi giám định : 02(hai) tràng, mỗi tràng đều được liên kết bởi các khối nhỏ hình trụ, nhiều màu sắc, có dây dẫn đều là pháo nổ, tổng khối lượng 2,0kg (hai phẩy không kilogam)(BL19).

Quá trình điều tra, bị can Phạm Văn Tkhai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên tối ngày 04/01/2022, Tuân đến nhà người tên là Tuy ở thôn Giếng, xã Song Vân, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, Tuân đứng ở cổng và nói vào phía trong “bán cho 200” rồi đưa 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) qua khe cổng, sau đó thấy có tay người thò ra cầm tiền rồi đưa qua khe cổng 01 túi nilon bên trong có 05 gói (tép) ma túy loại Heroine đựng trong 05 gói giấy bạc. Sau khi mua được ma túy, Tuân mang về nhà, mở 01 gói ma túy ra lấy 01 ít sử dụng rồi gói lại và cất giấu 05 gói ma túy vào túi quần. Sáng ngày 05/01/2022, Tuân điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98M7- 0870 mang theo 05 gói ma túy trong túi quần và đi đến Trung tâm y tế huyện Hiệp Hòa để khám bệnh. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, Tuân ra về đến khu vực cổng bệnh viện thì có một người đàn ông đến gặp Tuân bảo chuyển hộ ít đồ và sẽ trả công cho Tuân, Tuân đồng ý đi theo người đàn ông này ra khu vực bãi rác phía sau Trung tâm y tế huyện Hiệp Hòa thì người này đưa cho Tuân 01 túi nilon màu đen bên trong chứa pháo và bảo Tuân mang túi pháo đến ngã ba Trại Cờ, thôn Đức Nghiêm, xã Ngọc Sơn sẽ có người nhận và trả công cho Tuân 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Tuân nhận tiền rồi cầm túi pháo để ở giá đèo hàng phía trước của xe mô tô và điều khiển xe đến khu vực thôn Đức Nghiêm, xã Ngọc Sơn thì bị Công an xã Ngọc Sơn kiểm tra, bắt giữ.

Với nội dung trên Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS-HH ngày 20/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo Phạm Văn Tvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, sau phần xét hỏi tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo, phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

1, Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Tphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2, Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Phạm Văn Ttừ 18 tháng tù đến 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/01/2022. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

3,Về vật chứng: Áp dụng điểm a,b khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì ký hiệu “QT”, đựng vật chứng đã niêm phong.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã qua sử dụng được đựng trong một phong bì ký hiệu “ĐT”, 01 căn cước công dân số 024084016052;

01 đăng ký xe mô tô BKS: 98M7-0870 mang tên Trần Quốc Sinh; 01 xe mô tô BKS: 98M7-0870, số khung 033238, số máy 033238, xe đã qua sử dụng.

Tịch thu xung quỹ nhà nước số tiền 50.000đồng VND, đã được chuyển vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa ngày 20/01/2022.

4, Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Miễn án phí cho bị cáo.

Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hiệp Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về sự vắng mặt của người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do, tuy nhiên đã có đầy đủ lời khai của họ trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt theo khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[3]: Tại phiên toà hôm nay bị cáo Phạm Văn Tcó mặt tại phiên tòa cũng đã hoàn toàn khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với hành vi phạm tội, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, tang vật thu giữ và các tài liệu khác do Cơ quan điều tra thu thập, đã có đủ cơ sở để kết luận:

Ngày 05/01/2022, tại thôn Đức Nghiêm, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa, Phạm Văn Tđang có hành vi tàng trữ trái phép 0,136 gam ma túy Heroine thì bị Công an xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hoa bắt quả tang. Tuân khai mục đích tàng trữ số ma túy trên để sử dụng.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ cho đời sống cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, là nguy cơ lây truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS… Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển… trái phép chất ma tuý. Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm loại trừ tệ nạn này.

Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là đối tượng có nhân thân về hành vi tàng trữ ma túy, nhận thức rất rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do đó cần phải có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng của bị cáo thì thấy: Ngày 06/9/2021, Công an huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang ra quyết định xử phạt hành chính số 199/QĐXPHC về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hình thức phạt tiền, mức phạt 1.500.000 đồng, đã nộp phạt ngày 30/9/2021. Ngày 07/12/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang ra quyết định số 4395/QĐ đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người nghiện ma túy, thời hạn 12 tháng. Thi hành xong ngày 17/12/2013.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo một phần khi lượng hình.

[6]. Đối với người bán ma túy cho Tuân, Tuân khai chỉ nghe mọi người gọi tên là Tuy, Tuân không quen và chưa gặp mặt Tuy bao giờ; việc đưa tiền và nhận ma túy thông qua khe cửa ở cổng. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, xác định tại thôn Giếng, xã Song Vân, huyện Tân Yên có đối tượng tên là Dương Văn Tuy. Tại cơ quan điều tra, Tuy khai không quen biết Tuân và không có hành vi bán ma túy cho ai bao giờ. Do vậy, không có căn cứ để xử lý đối với Dương Văn Tuy trong vụ án này.

Đối với đối tượng thuê Tuân vận chuyển pháo ngày 05/01/2022, Tuân khai không biết tên, tuổi, địa chỉ; do vậy không có căn cứ để điều tra, xử lý. Do hành vi vận chuyển trái phép pháo nổ của Tuân chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên ngày 12/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND huyện Hiệp Hòa ra quyết định xử phạt hành chính đối với Tuân về hành vi này. Ngày 14/01/2022, Chủ tịch UBND huyện Hiệp Hòa đã ra quyết định xử phạt hành chính số 274/QĐ đối với Tuân, hình thức phạt tiền, mức phạt 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

[7]. Về vật chứng của vụ án gồm:

Đối với 01 (một) phong bì ký hiệu “QT”, được niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa: Chất cục bột màu trắng đựng trong 05 (năm) gói giấy bạc (trong đó có 03 (ba) gói có mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng và 02 (hai) gói có mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng) đều là ma túy, có khối lượng 0,136 gam, loại Heroin, cần tịch thu tiểu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280, là tài sản của bị cáo, 01 căn cước công dân số 024084016052 và 01 đăng ký xe mô tô BKS: 98M7-0870 mang tên Trần Quốc Sinh; không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 50.000đồng VND là số tiền bị cáo nhận để chuyển số pháo là hàng cấm, do vậy cần tịch thu để sung quỹ nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 98M7- 0870, Tuân khai mua của một người đàn ông không nhớ tên, tuổi ở huyện Việt Yên giá 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng), khi mua không làm giấy tờ mua bán, Tuân đưa tiền và người đó giao xe cùng đăng ký xe mang tên Trần Quốc Sinh- sinh năm 1971 ở thôn Núi, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên. Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai của ông Sinh có địa chỉ nêu trên; ông Sinh khai: Năm 2003, ông mua 01 chiếc xe mô tô, đăng ký BKS : 98M7-0870. Khoảng tháng 5/2021, do không có nhu cầu sử dụng nên ông đã bán cho một người đàn ông ở xã Song Vân, huyện Tân Yên nhưng không nhớ tên là gì. Cơ quan điều tra đã tiến hành tra cứu, kết quả chiếc xe mô tô BKS : 98M7-0870 không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng. Xét thấy, đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, do vậy cần trả lại cho bị cáo.

[8]. Về hình phạt bổ xung và án phí: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, gia đình thuộc diện hộ nghèo. Do vậy cần miễn hình phạt bổ xung và án phí cho bị cáo.

[9]. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về hình phạt:

Xử phạt: Phạm Văn Tuân: 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/01/2022. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a,b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì ký hiệu “QT”, đựng vật chứng đã niêm phong.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã qua sử dụng được đựng trong một phong bì ký hiệu “ĐT”; 01 căn cước công dân số 024084016052;

01 đăng ký xe mô tô BKS: 98M7-0870 mang tên Trần Quốc Sinh; 01 xe mô tô BKS: 98M7-0870, số khung 033238, số máy 033238, xe đã qua sử dụng.

Tịch thu xung quỹ nhà nước số tiền 50.000đồng VND, đã được chuyển vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa ngày 20/01/2022.

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án:

Miễn án phí cho bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về