Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 151/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 151/2022/HS-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 156/2022/TLST- HS ngày 13 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Hào Q, sinh năm 1997 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: ấp K8, xã Phú Đức, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn V (đã chết) và bà Trương Thị D; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/12/2021 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1977; HKTT: Ấp T, xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở: Khu phố A, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1982; chỗ ở: khu phố B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1969, vắng mặt.

- Ông Đào Văn S, sinh năm 1991, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 50 phút, ngày 01 tháng 12 năm 2021, Công an phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương tiến hành tuần tra theo quy định, khi tổ tuần tra đi đến khu vực nghĩa trang An Phú thuộc khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì phát hiện Phạm Hào Q điều khiển xe mô tô hai bánh kiểu dáng Jupiter màu đen mang biển số 66K1 - 227.42 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện bên trên gác baga xe mô tô trên có 01 (một) túi da màu xanh có khóa kéo, bên trong túi da màu xanh có 01 (một) túi nylon miệng kéo dính đựng 38 (ba mươi tám) đoạn ống hút nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong đều có chất màu trắng (nghi vấn ma túy). Lúc này, Q khai nhận chất màu trắng bên trong các đoạn ống hút đều là ma túy loại Heroine của Q cất giấu nhằm mục đích sử dụng nên lực lượng công an tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và giao hồ sơ vụ án cho Cơ quan Công an thành phố T để xử lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra Q khai nhận số ma túy trên Q mua của một nam thanh niên tên L (không rõ lai lịch) ở khu vực chợ P thuộc khu phố c, phường C, thành phố T với giá 3.800.000 đồng vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 01/12/2021 rồi để trên gác baga của xe mô tô, khi Q đang trên đường về phòng trọ thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ như trên. Lực lượng Công an đã tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ nơi Q ở tại địa chỉ: Phòng trọ số 4 cơ sở trọ địa chỉ: khu phố A, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương phát hiện thu giữ: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) túi da màu xanh có khóa kéo, bên trong túi da màu xanh có 01 (một) túi nylon miệng kéo dính dựng 38 (ba mươi tám) đoạn ống hút nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong đều có chất màu trắng (nghi vấn ma túy loại Heroin); 01 xe mô tô kiểu dáng Jupiter, biển số 66K1-227.42.

Theo Bản kết luận giám định số 769/MT-PC09 ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,3375 gam; loại Heroin.

Bản Cáo trạng số 154/CT-VKSTA ngày 13 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phạm Hào Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phạm Hào Q từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng là 01 bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 769/PC09 (là mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 túi da màu xanh có khóa kéo đề nghị tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu JUPITER FI-2VP4 xylanh 113,7 cm3, mang biển kiểm soát 66K1-227.42, có số khung, số máy không đổi. Số khung: RLCUT1340GY026222, số máy: E3S E-0s57480 thu giữ của bị cáo Phạm Hào Q. Quá trình điều tra Q khai nhận mượn xe mô tô trên của bà Nguyễn Thị T để đi công việc. Qua làm việc với bà Nguyễn Thị T khai mua lại xe mô tô trên tại cửa hàng mua bán xe mô tô H 3; địa chỉ: khu phố B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương vào ngày 24/10/2021 với số tiền 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng) nhưng chưa làm thủ tục sang tên chủ sở hữu, ngày 01/12/2021 bà T cho bị cáo Q mượn xe mô tô trên để đi công việc, việc Q sử dụng xe để đi mua ma túy thì bà T không biết. Qua làm việc với ông Nguyễn Hữu L là chủ cửa hàng xe H xác định vào đầu tháng 10 năm 2021, ông L có mua lại xe mô tô trên với số tiền 15.500.000 đồng (Mười lăm triệu năm trăm ngàn đồng) của một người đàn ông tên T (không rõ lai lịch) nhưng không làm hợp đồng mua bán xe, ông L nhận xe và giấy chứng nhận đăng ký xe rồi trả tiền cho người bán. Vào ngày 24/10/2021, ông L có bán xe mô tô trên cho bà T với số tiền 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng) và làm giấy bán xe như bà T cung cấp. Truy nguyên biển số xe, số khung và số máy xe mô tô trên do ông Phan Hoài N, địa chỉ: xã C, huyện T, tỉnh Đồng Tháp đứng tên chủ sở hữu. Tuy nhiên, ông N không có mặt ở địa phương, đi đâu không rõ nên không thể làm việc. Cơ quan cảnh sát điều tra đã thông báo truy tìm chủ sở hữu xe mô tô trên nhưng chưa ai liên hệ làm việc. Vì vậy, cần tiếp tục giao lại xe mô tô trên cho Cơ quan cảnh sát điều tra xác minh xử lý theo quy định.

Đối với đối tượng tên L đã bán ma túy cho bị cáo Q, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Phạm Hào Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, vật chứng thu giữ có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 11 giờ 50 phút ngày 01/12/2021, tại khu vực nghĩa trang An Phú thuộc khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Phạm Hào Q đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 1,3375 gam ma túy, loại Heroin nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Phạm Hào Q đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật Hình sự nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã cất giấu ma túy, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 769/PC09 (là mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 túi da màu xanh có khóa kéo không có giá trị sử dụng tịch thu, tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu YAMAHA, số loại JIPITER FI-2VP4, xy lanh 113,7 cm3, mang biển kiểm soát 66K1-227.42, số khung: RLCUE1340GY026222, số máy: E3S1E-057480 cần tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương để xác minh, xử lý theo quy định.

[09] Đối với đối tượng tên L đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Hào Q, hiện nay chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Hào Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Hào Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 769/PC09 (là mẫu vật hoàn lại sau giám định) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 túi da màu xanh có khóa kéo.

- Giao 01 (một) xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu YAMAHA, số loại JIPITER FI- 2VP4, xy lanh 113,7 cm3, mang biển kiểm soát 66K1-227.42, số khung:

RLCUE1340GY026222, số máy: E3S1E-057480 cho Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương để xử lý theo quy định.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/5/2022 giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T).

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Hào Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 151/2022/HS-ST

Số hiệu:151/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về