Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 21/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 21 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 160/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 181/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/HSST-QĐ ngày 21 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị Ngọc Y (tên gọi khác T), sinh năm 1999 tại tỉnh Bình Thuận; nơi cư trú: Thôn 2, xã P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh B và bà Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không Bị bắt tạm giữ ngày 15-5-2021 (có mặt tại phiên tòa)

2. Lường Thị Tr, sinh năm 1994 tại tỉnh Bắc Kạn; nơi cư trú: Buôn MLiêng 2, xã Đắk L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn O (đã chết) và bà Cà Thị N; tiền án, tiền sự: Không Bị bắt tạm giữ ngày 15-5-2021 (có mặt tại phiên tòa)

3. Võ Thị B (tên gọi khác Bé T), sinh năm 1996 tại tỉnh Phú Yên; nơi cư trú: Thôn M, xã Xuân L, thị xã S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc M và bà Trần Thị T; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Tại Quyết định số 49/QĐ-TA ngày 19-11-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chấp hành xong quyết định ngày 30-8-2019 Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa)

4. Lê Thị Kiều O (tên gọi khác T), sinh năm 2001 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Minh H và bà Vũ Thị M; bị cáo có 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa) - Người làm chứng: Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1962 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Tân L B, xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Ngọc Y, Võ Thị B, Lường Thị Tr, Lê Thị Kiều O và một người phụ nữ tên Th (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là những người nghiện ma túy và cùng ở chung tại phòng số 3 nhà trọ “H” thuộc thôn Tân L B, xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 19 giờ ngày 12-5-2021, cả 05 người thống nhất mỗi người góp 300.000 đồng đưa cho Y (do Y biết người bán trái phép chất ma túy) để mua ma túy đá về sử dụng. Sau đó Y gọi điện thoại cho một người đàn ông tên D (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 1.500.000 đồng tiền ma túy. D đồng ý bán và mang ma túy đến phòng trọ của Y giao ma túy cho Y và nhận tiền. Sau khi mua được ma túy, Y lấy ra một ít để sử dụng chung với Bốn, Tr, O và Th. Số ma túy còn lại, Y cất giấu vào bên trong một chiếc gang tay vải và để trên bàn trong khu vực bếp của phòng trọ nhằm mục đích để sử dụng dần.

Đến 07 giờ 00 phút ngày 15-5-2021, khi Y, B, Tr và O đang ở phòng trọ số 3 nhà trọ “H” thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Mỹ phối hợp với Công an xã C, thị xã Phú Mỹ đến nhà trọ “H” kiểm tra hành chính. Khi bị kiểm tra, Y đã tự nguyện giao nộp cho công an 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất kết tinh không màu, trong suốt, được giấu bên trong một chiếc gang tay bằng vải và để ở trên bàn trong khu vực bếp của phòng trọ. Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đồng thời còn thu giữ: 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu hồng trắng của Y; 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu xanh đen của O; 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đỏ của Tr và 01 gang tay bằng vải, màu nâu.

* Tại bản Kết luận giám định số 267/KLGĐ-PC09-MT ngày 24-5-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xác định:

“Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín được thu giữ trong vụ án, gửi đến giám định có khối lượng 0,6654 gam, là ma túy, loại Methamphetamine” Đối với người phụ nữ tên Thủy là người đã góp tiền mua ma túy cùng với Y, Tr, Bốn, O và người đàn ông tên D đã bán trái phép ma túy cho Y, hiện Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thị xã Phú Mỹ chưa xác minh được nhân thân, lai lịch.

* Bản Cáo trạng số 170/CT-VKS ngày 28-10-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ truy tố Nguyễn Thị Ngọc Y, Võ Thị B, Lường Thị Tr, Lê Thị Kiều O về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Luận tội của Kiểm sát viên Giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố đối với các bị cáo và đề nghị:

Hình phạt chính:

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Y, Tr, O mỗi bị cáo mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù;

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s, n Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo B từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Hình phạt bổ sung:

Các bị cáo là những người nghiện ma túy nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy bị thu giữ trong vụ án, 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy và 01 gang tay bằng vải, màu nâu;

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu hồng trắng của bị cáo Y vì liên quan đến tội phạm;

Trả cho bị cáo O 01 điện thoại di động hiệu Vivo và trả cho bị cáo Tr 01 điện thoại di động hiệu Oppo vì không liên quan đến tội phạm.

* Lời khai của các bị cáo:

Tại phần tranh tụng các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Các bị cáo không có ý kiến bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Mỹ, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và không bị ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo là phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ đó đã xác định được:

Vào 07 giờ 00 phút ngày 15-5-2021, tại nhà trọ “H” thuộc thôn Tân L, xã C, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trong lúc các bị cáo đang cất giữ trái phép 0,6654 gam ma túy loại Methamphetamine để nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng công an bắt quả tang.

Từ hành vi trên, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc Y, Võ Thị Bốn, Lường Thị Tr, Lê Thị Kiều O về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Các bị cáo là những công dân đã trưởng thành và đều là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy nên hoàn toàn nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe của con người. Tuy nhiên vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà các bị cáo đã cùng nhau góp tiền và đưa số tiền này cho bị cáo Y để Y trực tiếp liên hệ với một đối tượng tên Dũng mua ma túy về sử dụng. Quá trình điều tra đã xác định được bị cáo Y là người có vai trò cao hơn các bị cáo khác trong cùng vụ án. Riêng bị cáo B vào năm 2018 đã bị Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục vi phạm pháp luật. Do đó đối với các bị cáo cần phải xử lý nghiêm để nhằm mục đích răn đe, giáo dục.

[4] Tình tiết tăng nặng:

Các bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [5] Tình tiết giảm nhẹ:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại thời điểm phạm tội bị cáo B là người đang có thai và cùng bị cáo O là những người đang nuôi con nhỏ; bị cáo Tr là người dân tộc Tày.

Do đó các bị cáo Yên, Tr, O được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và bị cáo B được áp dụng các điểm s, n Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Hình phạt bổ sung:

Các bị cáo là những người không có nghề nghiệp ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy còn lại sau giám định, 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy, 01 gang tay bằng vải, màu nâu là vật chứng của vụ án, có liên quan đến tội phạm nên tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu hồng trắng của bị cáo Y được bị cáo sử dụng để liên lạc mua trái phép chất ma túy nên tịch thu sung ngân sách nhà nước;

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu xanh đen và 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đỏ thu của bị cáo Tr, O không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho các bị cáo.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm:

Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật [9] Đối với người phụ nữ tên Th và người đàn ông tên D hiện Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thị xã Phú Mỹ đang tiếp tục điều tra xác minh, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc Y (T), Võ Thị B (Bé T), Lường Thị Tr, Lê Thị Kiều O (T) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt: Nguyễn Thị Ngọc Y (T) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15-5-2021.

- Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt: Lường Thị Tr 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15-5-2021.

- Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s, n Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt: Võ Thị B (Bé T) 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

- Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt: Lê Thị Kiều O 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì thư niêm phong vụ số 267 ngày 24-5-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu niêm phong và đóng dấu; 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy và 01 găng tay bằng vải màu nâu đã cũ.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu hồng trắng đã cũ, không tìm thấy số Imel.

Trả cho bị cáo Lê Thị Kiều O 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu xanh đen, không tìm thấy số Imel, máy đã cũ, bể màn hình.

Trả cho bị cáo Lường Thị Tr 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đỏ, không tìm thấy số Imel, máy đã cũ.

Toàn bộ vật chứng, tài sản nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 11 ngày 28- 10-2021.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc Y, Võ Thị B, Lường Thị Tr, Lê Thị Kiều O mỗi người phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về