Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 128/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 128/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 126/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 122/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 đối với:

Vì Văn T, sinh ngày 15/02/1994 tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản K, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 5/12; dân tộc: Thái; giơi tinh: Nam; tôn giáo: Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Vì Văn C, sinh năm: 1964 và bà Hà Thị Í, sinh năm: 1964; bị cáo có vợ là Hoàng Thị N, sinh năm: 2002, có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2022 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ ngày 30/5/2022, Vì Văn T mang theo số tiền 800.000 đồng đi lên khu vực biên giới Việt Nam – Lào mục đích tìm mua ma tuý mang về sử dụng. Khi đi đến khu vực biên giới giáp ranh với bản Căng Tỵ, xã Chiềng Khừa, Vì Văn T gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết 01 gói nilon bên trong đựng 104 viên Methamphetamine và 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng Heroine với giá 800.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Vì Văn T cất giấu ma tuý vào trong túi quần rồi đi về. Khi đi về đến bản Khừa, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Khừa và Đồn biên phòng Cửa khẩu Lóng Sập kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ: 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 104 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY nghi là Methamphetamine và 01 gói nilon màu hồng chứa cục chất bột màu trắng nghi là Heroine.

Ngày 30/5/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Vì Văn T như sau: 104 viên nén màu hồng có khối lượng 9,8 gam, lấy 05 viên có khối lượng 0,46 gam làm mẫu giám định, mẫu có ký hiệu T1; Chất cục bột màu trắng có khối lượng 0,88 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định, mẫu có ký hiệu T2.

Tại Kết luận giám định số 931/KL-KTHS ngày 01/6/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,46 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma tuý, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,88 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 9,8 gam loại Methamphetamine và 0,88 gam loại Heroine. Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 không sử dụng hết trong quá trình giám định, có khối lượng 0,29 gam”.

Cáo trạng số 92/CT-VKS ngày 07/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Vì Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vì Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị:

Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vì Văn T từ 06 (Sáu) năm, 06 (Sáu) tháng đến 07 (Bảy) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a , c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong, bên trong đựng 99 viên = 9,34 gam viên nén màu hồng, cùng vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vì Văn T; 01 phong bì niêm phong đựng mẫu T2 = 0,29 gam.

- Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Vì Văn T.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát. Bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Công an xã Chiềng Khừa, Đồn Biên phòng Cửa khẩu Lóng Sập, cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Vì Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điêu tra , số ma túy bị thu giữ vào ngày 30/5/2022 có nguồn gốc mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết với giá 800.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu và Đồn biên phòng Cửa khẩu Lóng Sập lập vào hồi 10 giờ 00 phút ngày 30/5/2022; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản kết luận giám định số 931/KL-KTHS ngày 01/6/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,46 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma tuý, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,88 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 9,8 gam loại Methamphetamine và 0,88 gam loại Heroine”. Heroine nằm trong danh mục I, số thứ tự 9; Methamphetaminenằm trong danh mục II, STT: 323, tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Vì Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 30/5/2022 bị cáo Vì Văn T đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 0,88 gam Heroine và 9,8 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Do đó, hành vi của bị cáo Vì Văn T đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Căn cứ Điều 4 Chương II Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma tuý tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng của các chất ma tuý Heroine và Methamphetamine thu giữ của Vì Văn T là 0,88 gam + 9,8 gam = 10,68 gam. Hành vi của bị cáo Vì Văn T vi phạm tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần xem xét áp dụng đối với bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản gì có giá trị, là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong, bên trong đựng 99 viên = 9,34 gam viên nén màu hồng, cùng vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vì Văn T; 01 phong bì niêm phong đựng mẫu T2 = 0,29 gam. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho Vì Văn T, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[7] Về án phí: Xét thấy bị cáo Vì Văn T là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên toà bị cáo có ý kiến xin được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cần miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Vì Văn T.

[8] Thơi han tam giam cò n lại của bi cao còn trên 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam bị cáo sau phiên tòa.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Vì Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Vì Văn T 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 30/5/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a , c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong, bên trong đựng 99 viên = 9,34 gam viên nén màu hồng, cùng vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vì Văn T; 01 phong bì niêm phong đựng mẫu T2 = 0,29 gam.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Vì Văn T.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 128/2022/HS-ST

Số hiệu:128/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về