Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 112/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2022; tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 103/2022/TLST-HS ngày 15-4-2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2022/QĐXXST-HS ngày 04-5-2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Trọng Đ - sinh năm 1979 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số 8/9/142/192 đường T, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Viết Đ (đã chết) và bà Trần Thị D; có vợ Trần Thị Q và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18-9-2003 Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Ngày 09-3-2010 Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 40 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; bị tạm giữ từ ngày 24-01-2022, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 27-01-2022 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Trung K, anh Vũ Mạnh H (không triệu tập tới phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 24-01-2022, Tổ công tác Công an phường V, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà số 687 đường G, phường V, thành phố N phát hiện Vũ Trọng Đ đang điều khiển xe máy biển kiểm soát B1- 20010 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Đ đã nhả từ miệng ra 01 túi nilong màu xanh, kích thước (07 x 10) cm giao nộp cho Tổ công tác. Tổ công tác đã thu giữ, mở kiểm tra bên trong có 01 túi nilong màu xanh khác, trong có 01 gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột dạng cục màu trắng (Đ khai là gói Heroine vừa mua về để sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa Đ và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường V lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ của Đ 01 xe máy biển kiểm soát B1-20010; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung (đều đã cũ).

Bản Kết luận giám định số 279/GĐKTHS ngày 26-01-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận vật chứng thu giữ của Vũ Trọng Đ được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu: 0,151 gam (không phẩy một năm một gam).

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Trọng Đ khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 24-01-2022, Đ điều khiển xe máy biển kiểm soát B1-20010 từ nhà đến khu vực trước cửa số nhà 687 đường G, phường V, thành phố N. Tại đây, Đ dùng điện thoại gọi cho một người tên L có số điện thoại 0942921654 (không rõ lai lịch, địa chỉ) để nhờ mua hộ ma túy. Khoảng 05 phút sau, L đi bộ đến chỗ Đ đang đứng chờ. Đ đưa cho L 200.000 đồng để nhờ mua hộ 01 gói Heroine. L nhận tiền Đ đưa rồi điều khiển xe máy của Đ đi mua ma túy. Khoảng 15 phút sau, L quay lại đưa cho Đ 01 túi nilong màu xanh có chứa Heroine rồi đi đâu không rõ. Đ cầm túi nilong màu xanh có chứa Heroine cho vào mồm rồi lên xe máy đi tìm nơi sử dụng. Khi Đ chuẩn bị đi thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N có công văn gửi Trung tâm kinh doanh VNPT Nam Định và Ban kiểm tra - Pháp chế thanh tra của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam yêu cầu xác định chủ thuê bao của số điện thoại 0942921654 và cung cấp danh sách số điện thoại gọi đến và gọi đi của số thuê bao trên trong thời gian từ 08 giờ 30 phút đến 09 giờ ngày 24-01-2022 nhưng vẫn chưa có kết quả trả lời.

Bản Cáo trạng số 108/CT-VKS-TPNĐ ngày 14-4-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Vũ Trọng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Vũ Trọng Đ xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay dùng nhục hình. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Trọng Đ theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Vũ Trọng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng thu giữ của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Trọng Đ có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của những người làm chứng; bản Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 24-01-2022, tại khu vực trước cửa nhà số 687 đường G, phường V, thành phố N, Vũ Trọng Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,151 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là đối tượng có nhân thân xấu.

[4] Về hình phạt: Xét bị cáo Vũ Trọng Đ là đối tượng có nhân thân xấu đã được giáo dục nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy trong phong bì niêm phong số 279/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung (đã cũ) là tài sản của bị cáo Vũ Trọng Đ, xét bị cáo đã sử dụng chiếc điện thoại này để liên lạc nhờ mua hộ ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Vũ Trọng Đ, do chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát B1-20010, Vũ Trọng Đ khai mượn của anh Vũ Trọng C, sinh năm 1982; nơi cư trú: Số 8/9/142/192 đường T, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định (là em trai của Đ). Do anh Vũ Trọng C không biết việc Đ mượn xe đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại chiếc xe máy biển kiểm soát B1-20010 cho chủ sở hữu hợp pháp anh Vũ Trọng C là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Vũ Trọng Đ bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Trọng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Vũ Trọng Đ 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 24 tháng 01 năm 2022.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 279/GĐKTHS. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung (đã cũ) (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 15-4-2022).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vũ Trọng Đ phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Trọng Đ được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2022/HS-ST

Số hiệu:112/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về