Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 09/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 09/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 09 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 02/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo:

Đặng Ngọc T, sinh ngày 10/3/1963, nơi cư trú: Xóm 7, xã XH, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Ngọc T và con bà Nguyễn Thị V (đều đã chết); có vợ là Lê Thị T, có 02 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 20/10/2022, đến ngày 29/10/2022 chuyển tạm giam; “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị T, sinh năm 1965; địa chỉ: Xóm 7, xã XH, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; “có mặt”.

- Người chứng kiến: Anh Đoàn Văn N, sinh năm 1970; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 20/10/2022, Đặng Ngọc T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu WOLDWIDE, BKS: 18Z6-X của vợ là bà Lê Thị T đến khu vực xóm 9, xã XH để tìm mua ma tuý sử dụng cho bản thân. Đến nơi, T gặp một người phụ nữ không biết tên tuổi, địa chỉ. Qua dò hỏi biết người này có ma tuý bán, T hỏi mua 100.000 đồng Heroine, người phụ nữ đồng ý, nhận tiền rồi đưa lại cho T 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy trắng kẻ ô ly màu xanh, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. T xác định là Heroine, cầm ở tay trái rồi điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đang đi trên đường thuộc xóm 9, xã XH thì bị Tổ công tác Công an xã Xuân Thượng phối hợp với Công an xã XH đang làm nhiệm vụ phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. T tự giác giao nộp cho Tổ công tác 01 gói nhỏ vừa mua và khai là Heroine. Tổ công tác đã mời người chứng kiến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong 01 gói nhỏ T nộp ký hiệu là M. Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của T 01 xe mô tô BKS: 18Z6-X. Sau đó, Tổ công tác đã bàn giao Đặng Ngọc T cùng toàn bộ tài liệu, vật chứng cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường để điều tra theo thẩm quyền.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Đặng Ngọc T nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Kết quả xét nghiệm định tính Morphin ngày 20/10/2022 của Trung tâm y tế huyện Xuân Trường xác định: Đặng Ngọc T dương tính với Morphin.

Ngày 20/10/2022, Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với 01 gói nhỏ thu giữ của T. Tại bản kết luận giám định số 1547/KL-KTHS ngày 25/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy màu trắng kẻ ô ly màu xanh niêm phong trong phong bì thư ký hiệu M gửi giám định là ma tuý. Loại ma tuý: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,144 gam.

Tại cơ quan điều tra, Đặng Ngọc T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi mua ma túy về sử dụng như đã nêu và không có khiếu nại về kết luận giám định trên.

Cáo trạng số 86/CT-VKSXT ngày 09/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố bị cáo Đặng Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường luận tội, đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh và hình phạt chính: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc T từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 04 tháng tù;

không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, cho tiêu hủy số ma túy trong 01 gói nhỏ đã thu giữ của bị cáo; trả lại chiếc xe mô tô BKS: 18Z6-X cho bà Lê Thị T.

Trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, kết hợp với kết luận giám định về số ma túy thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ 30 ngày 20/10/2022, tại khu vực xóm 9, xã XH, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, Đặng Ngọc T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,144 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của Đặng Ngọc T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, như Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất gây nghiện, tiếp tay cho tệ nạn mua bán, sử dụng trái phép chất ma tuý, một hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội, là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm như: Trộm cắp tài sản, cướp tài sản,... làm tan vỡ hạnh phúc bao gia đình. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; là người nghiện ma túy nên bị cáo đã thấu hiểu được tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật hình sự để răn đe và phòng ngừa.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ hành vi cũng như theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng thu giữ: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe mô tô BKS:

18Z6-X của bà Lê Thị T xét thấy khi cho T mượn xe bà T không biết T sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại chiếc xe mô tô cho bà T là phù hợp.

[8] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo T, bị cáo T khai không biết tên, tuổi, địa chỉ ngoài ra không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường không đủ căn cứ để xử lý là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

- Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/10/2022.

2. Xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy số ma túy trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 1547/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định;

- Trả lại chiếc xe mô tô BKS: 18Z6-X cho bà Lê Thị T.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 18/CCTHA ngày 18/01/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Đặng Ngọc T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về