Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 11/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 147/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 183/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Đình T, sinh năm 1977 tại Tỉnh T; nơi đăng ký thường trú: Không đăng ký; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Đình T và bà: Nguyễn Thị Kim L; có vợ: Trần Thị Phi Y và 01 con: sinh năm 1999; Nhân thân:

- Bản án số 1039/HSST ngày 15/9/1994 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, bị cáo kháng cáo; Bản án số 1604/HSPT ngày 21/12/1994 Tòa Phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh y án sơ thẩm;

- Bản án số 153/HSST ngày 23/6/1997 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”;

- Bản án số 1941/HSST ngày 24/7/2000 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;

- Bản án số 1215/HSST ngày 11/7/2003 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”;

- Bản án số 11/2010/HSST ngày 19/01/2010 Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Bản án số 322/2014/HSST ngày 31/12/2014 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”;

- Bản án số 04/2017/HSST ngày 24/02/2017 Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận xử phạt 02 năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”, tổng hợp với hình phạt chưa chấp hành của Bản án số 322/2014/HSST ngày 31/12/2014 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh là 10 tháng 28 ngày, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 02 năm 10 tháng 28 ngày tù.

Tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 230/QĐ-TA ngày 10/9/2020 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, chấp hành xong ngày 21/3/2022; tạm giữ, tạm giam: 12/6/2022. Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Lương Thị L, sinh năm 1971, nơi cư trú: tổ 5, khu phố 3, xã T, huyện B, tỉnh B. Vắng mặt.

2. Ông Ngô Anh M, sinh năm 1972, nơi cư trú: 838 Đường A, Phường K, quận T, Thành phố H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 12/06/2022, tại trước nhà số 121 Đường N, Phường K, quận T, Tổ tuần tra Hình sự đặc nhiệm Công an quận Tân Bình tuần tra phát hiện Phạm Đình T điều khiển xe gắn máy hiệu Attila biển số 61U2-X có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, bắt quả tang trong túi quần phía sau bên phải quần jean dài T đang mặc có 01 bóp màu đen, bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu nghi là ma túy. Kết luận giám định số 3391/KL-KTHS ngày 17/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: tinh thể không màu trong 02 gói nylon thu giữ của T là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,3203 gam.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, T thừa nhận hành vi cất giấu ma túy để sử dụng như trên và khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 12/6/2022, do nghiện ma túy nên T hỏi một người bạn tên Tuấn (không rõ lai lịch) nơi bán ma túy thì được người này cho số điện thoại. T ghi số điện thoại lên giấy rồi điều khiển xe gắn máy hiệu Attila biển số 61U2-X đi tìm người bán ma túy. Do không có điện thoại nên trên đường đi, T đã mượn điện thoại của một người chạy xe ôm trên đường Lạc Long Quân để gọi điện thoại cho người bán ma túy. Người bán ma túy hẹn gặp tại khu vực chùa Giác Lâm, quận Tân Bình. T trả lại điện thoại cho người xe ôm rồi chạy xe đến điểm hẹn đứng đợi. Khoảng 05 phút sau, có một người đàn ông đeo khẩu trang điều khiển xe chạy đến hỏi T: “Mua ma túy phải không?”. T gật đầu thì người này đưa cho T 02 gói ma túy đá, T trả 200.000 đồng rồi cất ma túy vào trong bóp tiền. T cất bóp tiền vào túi quần jean đang mặc và điều khiển xe về nhà, khi đến số 129 Đường N, Phường K, quận T thì bị công an kiểm tra, bắt giữ như nêu trên.

Kết luận giám định pháp y tâm thần số 4369 ngày 12/10/2022 của T tâm pháp y tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Về y học: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 12/06/2022 cho đến hiện tại Phạm Đình T bình thường.

- Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 12/06/2022 cho đến hiện tại Phạm Đình T đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 685/22 và chữ ký giám định viên Trung tá Nguyễn Xuân S, chữ ký Vi Thị Hồng Hạnh (ma túy còn lại sau giám định).

- 01 xe gắn máy Attila màu trắng đen, biển số 61U2-X, 01 bóp màu đen có chữ Pedro và số tiền 8.700.000 đồng thu giữ của T.

Đối với người xe ôm cho T mượn điện thoại và người bạn tên Tuấn cung cấp số điện thoại người bán ma túy cho T, do không xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình không có cơ sở để điều tra làm rõ.

Đối với người bán ma túy cho T, sau khi liên lạc T đã vất bỏ tờ giấy ghi số điện thoại, T không biết mặt người bán do đeo khẩu trang, không rõ đặc điểm nhân thân, tại khu vực chùa Giác Lâm camera an ninh bị hư không trích xuất được hình ảnh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình không có cơ sở để khởi tố điều tra.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS-TB ngày 13 tháng 12 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Phạm Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Phạm Đình T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Đình T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,3203 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó không chỉ là hành vi xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, tạo điều kiện làm gia tăng tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh thiếu niên và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và biết rõ tác hại của việc cất giấu chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp tất cả, xem thường pháp luật và lợi ích của cộng đồng. Xét nhân thân bị cáo là xấu, bị cáo đã nhiều lần bị kết án và đã bị xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại cố tình phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện một cách triệt để, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 685/22 và chữ ký giám định viên Trung tá Nguyễn Xuân S, chữ ký Vi Thị Hồng Hạnh (ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 bóp màu đen có chữ Pedro và số tiền 8.700.000 đồng thu giữ của bị cáo. Xét thấy 01 bíp màu đen có chữ Pedro là vật không có giá trị và bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy; đối với số tiền 8.700.000 đồng là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 xe gắn máy Attila màu trắng đen, biển số 61U2-X thu giữ của bị cáo. Qua xác minh, xe do bà Lương Thị L đứng tên chủ sở hữu. Bà Lan trình bày đã bán xe lại cho người khác vào năm 2013, khi bán có viết giấy tay nhưng không nhớ được thông tin của người mua. Bị cáo khai mua xe trên từ ông Ngô Anh M vào tháng 5/2022 với giá 2.800.000 đồng, có làm giấy mua bán tay, bản chính giấy đăng ký xe T đã làm thất lạc. Qua làm việc, ông Ngô Anh M trình bày vào tháng 4/2022 có mua xe trên từ một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 2.000.000 đồng, đã làm thất lạc giấy tờ mua bán xe; sau đó ông Minh bán cho một người tên Phạm Đình T với giá 2.800.000 đồng, có làm giấy mua bán tay và có giao bản chính giấy đăng ký xe tên Lương Thị L cho người mua. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu xe nhưng chưa có kết quả. Xét thấy xe gắn máy trên có nguồn gốc chưa rõ ràng, cần giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu 01 thời gian nhất định, quá thời hạn trên mà không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước. Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Phạm Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Đình T 03 (ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 6 năm 2022.

[2] Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 685/22 và chữ ký giám định viên T tá Nguyễn Xuân S, chữ ký Vi Thị Hồng Hạnh (ma túy còn lại sau giám định) và 01 bóp màu đen có chữ Pedro.

Trả lại cho bị cáo số tiền 8.700.000 (tám triệu bảy trăm nghìn) đồng.

Giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu 01 xe gắn máy Attila màu trắng đen, biển số 61U2-X, số khung: 012974, số máy: 012974 trong thời gian 01 năm, quá thời hạn trên mà không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

(Tình trạng vật chứng theo như Biên bản bàn giao vật chứng số 126/BB/2022 ngày 29/12/2022 giữa Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận Tân Bình và Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình).

[4] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về