Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2022, Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 143/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn Đ, (tên gọi khác: Không), sinh ngày 02/01/1993 tại T, tỉnh Thái Bình; nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; nơi ở: Tổ 8, khu 4, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Công nhân Công ty than Nam Mẫu; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Đoàn Thị Q, có vợ Phạm Thị L, có 01 con sinh năm 2019; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/9/2014 bị Công an thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; bị tạm giữ ngày 21/9/2021, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người chứng kiến:

1. Anh Vũ Văn H, sinh năm 1990; nơi cư trú: Tổ 1, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1966, nơi cư trú: Tổ 2, khu 10, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 25 phút ngày 21/9/2021, tổ công tác Công an phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh làm nhiệm vụ tại tổ 1, khu 11, phường T, thành phố U phát hiện bắt quả tang Phạm Văn Đ có hành vi cất giấu trái phép chất nghi là ma túy. Quá trình kiểm tra, Đ đã thả từ lòng tay phải xuống dưới nền đường cách vị trí Đ đứng khoảng 30cm 01 gói giấy nhỏ màu vàng, bên trong có 02 gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong mỗi gói giấy này đều chứa chất bột màu trắng dạng cục (kí hiệu M1, M2). Ngoài ra, còn thu giữ của Đ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen gắn sim số 0978.148.881; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh biển kiểm soát (BKS) 28G1-136.56.

Tại bản Kết luận giám định số 1825/KLGĐ ngày 27/9/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật M1, M2 gửi giám định là ma túy, loại: Heroine; khối lượng: 0,219 gam.

Quá trình điều tra Phạm Văn Đ khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 21/9/2021, Đ đang ở phòng trọ tại tổ 8, khu 4, phường T, thành phố U thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy loại Heroine, Đ gọi điện thoại cho C (không rõ lai lịch, địa chỉ) để hỏi mua ma túy, C đồng ý và hẹn tới cổng phụ Chợ T, thành phố U. Đ điều khiển xe mô tô BKS 28G1-136.56 đến điểm hẹn. Khi đến nơi, Đ đưa C 500.000 đồng, C dẫn Đ vào một ngõ gần đó, khi đi được khoảng 30m thì C dừng lại, chỉ tay vào một gốc cây gần đó rồi bảo Đ lấy túi ma túy ở đó. Đ cầm túi ma túy lên, tin tưởng đó là ma túy cần mua nên đã cầm ở tay phải rồi ra về. Khi đi đến đầu ngõ thì bị lực lượng Công an phường T phát hiện, bắt quả tang. Do lo sợ, Đ đã thả gói giấy có chứa ma túy từ lòng bàn tay phải xuống nền đường cách vị trí đứng 30cm nhưng bị Công an phát hiện thu giữ.

Bản Cáo trạng số: 03/CT-VKSUB ngày 16/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố Phạm Văn Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, giữ nguyên quan điểm như nội dung Cáo trạng đã truy tố; đề nghị xét xử bị cáo Phạm Văn Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, với mức hình phạt từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 21/9/2021; không đề nghị hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy hoàn lại sau giám định trong niêm phong số: 1825/LKGĐ và 01 sim điện thoại; đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone; đề nghị giao chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 28G1-136.56, màu xanh (không rõ chủ sở hữu) cho Công an thành phố Uông Bí giải quyết theo thẩm quyền quy định tại các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt bị cáo Phạm Văn Đ nhận thức được hành vi phạm tội và thừa nhận việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội nên có đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về trình tự thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận nên xét xử vắng mặt bị cáo theo điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về tội danh:

Bị cáo Phạm Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra đều phù hợp với nhau; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 39 phút ngày 21/9/2021 và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ lập hồi 11 giờ 45 phút cùng ngày; phù hợp với lời khai của những người chứng kiến anh Vũ Văn H và ông Nguyễn Văn H; phù hợp với Kết luận giám định số: 1825/KLGĐ ngày 27/9/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh.

Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng nhưng vẫn thực hiện là thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại: Heroine; khối lượng: 0,219 gam, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang vào hồi 10 giờ 25 phút ngày 21/9/2021, tại tổ 1, khu 11, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bản Cáo trạng số: 03/CT-VKSUB ngày 16/12/2021, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố đối với bị cáo và các đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và gây mất an ninh trật tự tại địa phương, nhất là trong tình hình hiện nay, tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho xã hội, gây nguy hại đến sức khỏe, đời sống của con người, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cho người sử dụng và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác.

Xét nhân thân của bị cáo cho thấy: Bị cáo là người trưởng thành có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng không tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà thường sử dụng chất ma túy nên đã tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng là thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3]. Về hình phạt:

Sau khi xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần phải xử phạt với một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không có mục đích kiếm lời, không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng và các vấn đề khác: Số ma túy được hoàn lại sau giám định trong niêm phong số: 1825/KLGĐ là vật cấm tàng trữ lưu hành, còn sim số 0978.148.881 liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu, tiêu hủy;

Đối với chiếc điện thoại Iphone là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave gắn BKS 28G1-136.56, quá trình điều tra không xác định được số khung, số máy nguyên thủy của xe. Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng cũng chưa xác định được chủ sở hữu nên giao cho Công an thành phố Uông Bí xử lý theo thẩm quyền.

Đối với người đàn ông tên C bán ma túy cho Đ, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[5]. Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 21/9/2021.

2. Căn cứ vào các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số: 1825/KLGĐ và sim điện thoại số 0978.148.881;

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone;

Giao cho Công an thành phố Uông Bí 01 chiếc xe mô tô Honda Wave gắn biển kiểm soát 28G1-136.56 để xử lý theo thẩm quyền.

Tình trạng các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, ngày 18/12/2021.

Bị cáo Phạm Văn Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về