TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUÊ
BẢN ÁN 246/2021/HSST NGÀY 05/11/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Trong ngày 05 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố H xét xư sơ thâm công khai vu an hinh sư sơ th ẩm thu ly sô : 75/2021/HSST ngày 02 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2021/QĐXXST-HS ngay 05 tháng 5 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 91/2021/HSST-QĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021, Thông báo mở lại phiên tòa số: 199/TB-TA ngày 20 tháng 10 năm 2021, đôi vơi các bị cáo:
1. Bùi Văn T, sinh ngày 20/11/1991, tại tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm B, xã S, huyện K, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn L và con bà Bùi Thị T; vợ, con: chưa có; anh em ruột: có 03 người, bị cáo là con út; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Lúc nhỏ sống với gia đình tại xã S, huyện K, tỉnh Hòa Bình; học đến lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà, không nghề nghiệp ổn định.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/11/2020 - có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn T: Bà Trương Thị Hồng N, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế - có đơn xin xét xử vắng mặt, do thuộc đối tượng F2 bị cách ly tại nhà có gửi bản luận cứ bào chữa cho bị cáo Bùi Văn T.
2. Hà Văn S, sinh ngày 30/11/1997 tại tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn 05, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn D và bà Vũ Thị H, vợ con: chưa có; Anh em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Lúc nhỏ sống với gia đình tại xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình; học đến lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà, không nghề nghiệp ổn định.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/11/2020 - có mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Trần Thảo N, sinh năm 1991. Nơi cư trú: Tổ 01, phường H, quận H, thành phố Hà Nội - vắng mặt.
+ Anh H, sinh năm 1985. Nơi cư trú trước đây: 7/24 Đường L, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nay thường trú tại: 13 Đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
+ Chị Trần Thị Thùy L, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Tổ dân phố 2, phường H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
Người làm chứng: Chị Phan Thị T, sinh năm 1987. Nơi cư trú: 13 Đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 10/2020, một người tên là A (có tên khác là H, chưa rõ lai lịch) quen biết Bùi Văn T và Hà Văn S qua mạng xã hội. Sau đó A, T, S và một số đối tượng khác gặp nhau tại thành phố Hồ Chí Minh. A bàn với cả nhóm làm giấy tờ chứng nhận đăng ký xe, chứng minh nhân dân giả, đồng thời sử dụng các giấy tờ giả để mua xe trả góp. Sau khi lấy được xe, A chỉ đạo các đối tượng mang xe đến các tỉnh miền Trung để cầm cố lấy tiền.
Đến giữa tháng 10/2020, A gửi 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu SH, màu trắng, số máy: JF95E0022719, số khung: 950XLY011707, gắn biển kiểm soát giả 75E1- 327.30 (xe này do chị Trần Thảo N, sinh năm: 1991, hiện ở tại: Tổ 1, phường H, quận H, thành phố Hà Nội. Chị N khai bản thân mình giao cho A giữ hộ) cùng giấy chứng minh nhân dân và chứng nhận đăng ký xe giả đều mang tên Phan Văn M, địa chỉ: Thôn N, xã Q, huyện Q, Thừa Thiên Huế ra thành phố Đà Nẵng. Sau đó, T và S đi máy bay ra thành phố Đà Nẵng để nhận xe cùng các giấy tờ giả. Tại thành phố Đà Nẵng, T và S gặp một người phụ nữ tên N và một người đàn ông (không rõ lai lịch) do A giới thiệu để giao xe mô tô cho N. N là người trực tiếp đưa xe đi cầm, lấy được số tiền 25.000.000 đồng, rồi chuyển khoản tiền cho A. Sau đó, T và S đi máy bay vào lại thành phố Hồ Chí Minh. Do N cầm xe mô tô trên với giá thấp nên A đã chuyển cho S số tiền 29.000.000 đồng, chỉ đạo cho T và S đi máy bay ra lại thành phố Đà Nẵng chuộc lại xe rồi đưa ra thành phố H để cầm với giá cao hơn. Chiều ngày 04/11/2020, sau khi chuộc lại xe, T và S điều khiển xe ra thành phố H và đến tiệm cầm đồ H tại 138 đường T, phường T, thành phố H để cầm. T đứng đợi bên ngoài, S đưa giấy tờ giả vào gặp anh H (sinh năm: 1985, là chủ tiệm) nhằm mục đích cầm xe với số tiền 50.000.000 đồng. Sau khi xem qua giấy tờ, nghi ngờ giấy tờ giả nên anh H không cầm và giả vờ cầm xe với giá thấp. Do không đồng ý với giá anh H đưa ra, nên S điều khiển xe mô tô trên chở T đi tìm nơi khác để cầm thì bị Công an phát hiện, tạm giữ người và vật chứng.
Ngoài ra, T và S còn khai nhận, với thủ đoạn tương tự, vào giữa tháng 10 năm 2020, cả hai đã sử dụng giấy tờ giả để cầm cố một xe SH màu đỏ, biển số 75E1- 335.62 tại thành phố Đà Nẵng. T và S không nhớ địa chỉ cầm.
* Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy; số: 053807; tên chủ xe:
PHAN VĂN M; địa chỉ: Thôn N, xã Q, huyện Q, Thừa Thiên Huế; biển số đăng ký 75E1-327.30; ngày cấp 09 tháng 6 năm 2020;
- 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy; số 053807; tên chủ xe: DƯƠNG VĂN D; địa chỉ: Thôn T, Xã Q, Huyện Q; biển số đăng ký 75E1-33562; ngày cấp 03 tháng 8 năm 2020;
- 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy; số 042764; tên chủ xe: PHAN VĂN M; địa chỉ: Thôn N, xã Q, Huyện Q; Biển số đăng ký 75E1-327.30; ngày cấp 09 tháng 6 năm 2020;
- 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân; số 193680437; họ tên: PHAN VĂN M; sinh ngày: 05-09-1993; nơi ĐKKH thường trú: Thôn N, xã Q, Huyện Q, Thừa Thiên Huế, ngày cấp 30 tháng 11 năm 2017;
- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, gắn biển số 75E1-327.30, số máy JF95E0022719, số khung 950XLY011707, đã qua sử dụng.
Tại các Bản kết luận giám định số 671 ngày 12/11/2020, 672 ngày 26/11/2020 và số 674 ngày 27/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận:
“GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” cần giám định ký hiệu A là “GIẤY CHỨNG MINH NHÂN DÂN” giả.
“CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÍ XE MÔTÔ, XE MÁY” cần giám định ký hiệu là A là “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÍ XE MÔTÔ, XE MÁY” giả.
“CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÍ XE MÔTÔ, XE MÁY” số 053807 mang tên chủ xe PHAN VĂN M; địa chỉ: Thôn N, xã Q, Huyện Q; biển số đăng kí 75E1-32730 đề Huyện Q ngày 09 tháng 6 năm 2020 cần giám định ký hiệu A1, là giả.
“CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÍ XE MÔTÔ, XE MÁY” số 053807 mang tên chủ xe DƯƠNG VĂN D; địa chỉ: Thôn T, Xã Q, Huyện Q; biển số đăng ký 75E1-33562 đề Huyện Q ngày 03 tháng 8 năm 2020 cần giám định ký hiệu A2, là giả.
* Về xử lý vật chứng:
Chị Trần Thảo N khai chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, số máy JF95E0022719, số khung 950XLY011707 là xe do mình đăng ký chủ sở hữu, trước đó giao cho A giữ hộ nhưng chị N không biết rõ về nhân thân lai lịch của A, hiện không xác định được nhân thân lai lịch của A, vụ việc liên quan đến nhiều địa bàn (thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng), Cơ quan điều tra đã có thông báo gửi đến Cơ quan điều tra các địa phương liên quan để giải quyết vụ việc. Do vậy, để đảm bảo cho việc điều tra, xử lý đúng quy định của pháp luật của các địa phương khác, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H tiếp tục lưu giữ xe mô tô là đúng quy định của pháp luật.
Đối với 03 Giấy chứng nhận đăng kí xe môtô, xe máy giả và Giấy chứng minh nhân dân giả tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án để đảm bảo cho việc xét xử.
Đối với biển số xe 75E1-327.30 giả cần chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H để đảm bảo cho việc xét xử.
Tại Cơ quan điều tra các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 92/CT-VKS-HS ngày 31/3/2021, Viên kiêm sat nhân dân thành phố H đa truy tô các bị cáo về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;
- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng.
- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Hà Văn S từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng.
Về xử lý vật chứng:
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, số máy JF95E0022719, số khung 950XLY011707 hiện vẫn chưa được xác minh làm rõ, có liên quan đến vụ việc ở nhiều địa bàn khác nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H tiếp tục lưu giữ để đảm bảo cho việc điều tra, xử lý sau này.
- Đối với 03 Giấy chứng nhận đăng kí xe môtô, xe máy giả và Giấy chứng minh nhân dân giả là tài liệu chứng cứ của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
- Đối với biển số xe 75E1-327.30 giả không sử dụng được, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy.
Về án phí: Đề nghị buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Tại bản luận cứ, người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn T nêu về nguyên nhân, mục đích dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo Bùi Văn T. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 65, Điều 101 Bộ luật hình sự để cho bị cáo được hưởng án treo, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội được ở bên gia đình, đi học nghề, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H. Lời sau cùng của các bị cáo là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo, và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào ngày 04/11/2020, Bùi Văn T và Hà Văn S đã sử dụng các giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy giả, giấy chứng minh nhân dân giả với mục đích cầm cố xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, số máy JF95E0022719, số khung 950XLY011707 tại 138 Đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 92/CT-VKS-HS ngày 31/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét về vai trò của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo đều là người bị bạn rủ rê lôi kéo, cả hai đều cùng thực hiện hành vi phạm tội, nên có vai trò ngang nhau trong vụ án.
[4] Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thấy rằng: Hành vi của các bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính, sự hoạt động đúng đắn, bình thường và uy tín của cơ quan Nhà nước trong quản lý hành chính. Do đó, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục các bị cáo; phòng chống phạm tội tương tự có thể xảy ra. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt cần xem xét cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên cần quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, số máy JF95E0022719, số khung 950XLY011707 của chị Trần Thảo N, do hiện không xác định được nhân thân lai lịch của A, vụ việc liên quan đến nhiều địa bàn (thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng), Cơ quan điều tra đã có thông báo gửi đến Cơ quan điều tra các địa phương liên quan để giải quyết vụ việc, nên Cơ quan điều tra Công an thành phố H tiếp tục lưu giữ xe mô tô trên để đảm bảo việc điều tra, xử lý sau này.
- Đối với 03 Giấy chứng nhận đăng kí xe môtô, xe máy giả và Giấy chứng minh nhân dân giả là tài liệu chứng cứ của vụ án nên cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
- Đối với biển số xe 75E1-327.30 giả là tang vật của vụ án không sử dụng, nên cần tịch thu và tiêu hủy.
[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Văn T và Hà Văn S phạm tội "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức".
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bùi Văn T 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Bùi Văn T cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện K, tỉnh Hòa Bình nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Hà Văn S 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Hà Văn S cho Ủy ban nhân dân xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Tiếp tục tạm giữ xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, số máy JF95E0022719, số khung 950XLY011707 của chị Trần Thảo N là chủ sở hữu tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H để đảm bảo việc điều tra, xử lý sau này.
- Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 03 Giấy chứng nhận đăng kí xe môtô, xe máy giả và Giấy chứng minh nhân dân giả.
- Tịch thu và tiêu hủy biển số xe giả 75E1-327.30 (Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H ngày 01/4/2021).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc các bị cáo Bùi Văn T, Hà Văn S mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 246/2021/HSST
Số hiệu: | 246/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về