TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU, SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại phòng xét xử, Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2021/HSST ngày 19 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 23/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số:18/2021/HSST-QĐ, ngày 13 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2021/HSST-QĐ, ngày 03 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:
Bùi Văn H, sinh ngày 09 tháng 3 năm 1996; nơi sinh: tỉnh Đ; Nơi cư trú: Tổ dân phố 6, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: Lớp 09/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H, sinh năm 1966 và con bà Phạm Thị T, sinh năm 1967; có vợ là Đinh Thị Thu H, sinh năm 1994; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2020; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
Người làm chứng:
Anh Nguyễn Kim Đ, sinh năm 1986
Cùng địa chỉ: Thôn 8, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Bùi Văn H bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào tháng 7/2018, Bùi Văn H nhờ anh ruột là Bùi Văn H1, sinh năm 1993, trú tại: Tổ dân phố 6, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk đứng tên để Bùi Văn H mua 01 chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu SYM, loại 2,5 tấn, sau đó chiếc xe này được Công an tỉnh Đắk Lắk cấp biển kiểm soát là 47C-193.29. Bản thân Bùi Văn H chưa có giấy phép lái xe ô tô theo quy định, tuy nhiên, do trước đây Bùi Văn H từng đi phụ xe nên biết lái xe ô tô. Do đó, sau khi mua xe thì Bùi Văn H là người trực tiếp quản lý, sử dụng xe vào mục đích kinh doanh vận tải.
Để tránh bị xử phạt hành chính vì không có giấy phép lái xe, Bùi Văn H nảy sinh ý định làm giả 01 giấy phép lái xe ô tô để xuất trình khi lực lượng Cảnh sát giao thông yêu cầu. Do đó, khoảng tháng 02/2019, H sử dụng điện thoại di động của mình truy cập mạng xã hội facebook để tìm kiếm người làm giả giấy phép lái xe ô tô. Sau khi tìm kiếm, H thấy có 01 tài khoản (H không nhớ tên tài khoản và không biết người sử dụng là ai) đăng tin nhận làm giả giấy phép lái xe nên H liên hệ với tài khoản facebook này (Thông qua ứng dụng nhắn tin của Facebook) đặt làm giả 01 giấy phép lái xe hạng C với giá 6.000.000 đồng. Sau đó, H gửi hình ảnh chân dung và thông tin cá nhân của mình cho người này. Sau khi làm xong, người này gửi giấy phép lái xe giả về cho H thông qua công ty Giao hàng tiết kiệm. H nhận giấy phép lái xe rồi thanh toán tiền cho nhân viên giao hàng.
Đối với chiếc xe biển kiểm soát 47C-193.29, đến tháng 7/2019 là đến thời hạn đăng kiểm. Tuy nhiên, do không có tiền để đi đăng kiểm xe nên H nảy sinh ý định đặt làm giả 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô (Gọi tắt là giấy chứng nhận kiểm định). Do đó, H tiếp tục sử dụng điện thoại di động truy cập mạng xã hội facebook để tìm kiếm người làm giấy tờ giả thì thấy có 01 tài khoản đăng tin nhận làm các loại giấy tờ giả (H không nhớ tên tài khoản và không biết người sử dụng là ai). Sau khi nhắn tin hỏi thì người này đề nghị H liên lạc qua mạng xã hội zalo. H lấy số điện thoại do tài khoản facebook này cung cấp để liên hệ thì thấy tài khoản zalo của người này là “Võ Văn K”. Sau khi trao đổi, tài khoản “Võ Văn K” đồng ý làm giả cho H 01 giấy chứng nhận kiểm định cho xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 với giá 3.315.000 đồng. H gửi hình ảnh chụp giấy chứng nhận kiểm định cũ cho tài khoản “Võ Văn K” và địa chỉ nhận hàng. Ngày 11/6/2020, nhân viên của công ty Giao hàng tiết kiệm đến giao cho H 02 phong bì dán kín, bên ngoài ghi thông tin là “Sim số đẹp” và có tên người gửi là Võ Văn K, địa chỉ: Đường N1, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. H thanh toán tiền cho nhân viên giao hàng rồi mở ra xem thì thấy 01 phong bì có 01 giấy chứng nhận kiểm định như H đã đặt, phong bì còn lại là 01 tem kiểm định nhưng gửi nhầm cho H. H cất giữ giấy chứng nhận kiểm định để sử dụng, còn tem chứng nhận kiểm định thì vứt bỏ.
Ngày 06/9/2020, Bùi Văn H điểu khiển xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 đi từ tỉnh Đắk Lắk về tỉnh An Giang để chở hàng về tỉnh Đắk Lắk, đi cùng H còn có anh trai là Bùi Văn H. Khi đi đến km 1933 - QL14 thuộc xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông thuộc Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Nông yêu cầu dừng xe để kiểm tra vì có hành vi vi phạm hành chính. Lúc này, H xuất trình 01 “GIẤY PHÉP LÁI XE” hạng C số: 880192752963 mang tên Bùi Văn H, cấp ngày 09/02/2019 tại thành phố Hồ Chí Minh và 01 “GIẤY CHỨNG NHẬN KIỂM ĐỊNH AN TOÀN KỸ THUẬT VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ XE Ô TÔ” số: 6275544, cấp ngày 2/6/2020. Lực lượng Cảnh sát giao thông nghi giấy tờ H xuất trình là giấy tờ giả nên đã tạm giữ xe ô tô và giấy tờ, đồng thời chuyển hồ sơ đến cơ quan điều tra để xử lý theo quy định.
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã niêm phong và gửi Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông để giám định đối với 01 giấy phép lái xe và 01 giấy chứng nhận kiểm định đã tạm giữ của Bùi Văn H.
Tại Kết luận giám định số 184/GĐTL- PC09, ngày 21/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Giấy phép lái xe và giấy chứng nhận kiểm định gửi đến giám định không phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Kết luận giám định số 322/KLGĐ-PC09, ngày 21/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 có số khung nguyên thủy là: RPGCL35YLFV100223, số máy nguyên thủy là: JX493ZQ4A*DC194462* (số máy và số khung không thay đổi); biển kiểm soát 47C- 193.29 là do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hành.
Tại cơ quan điều tra, Bùi Văn H đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, xử lý vật chứng:
01 xe ô tô tải nhãn hiệu SYM, loại 2,5 tấn, số khung: RPGCL35YLFV100223, số máy: JX493ZQ4A*DC194462*biển kiểm soát 47C-193.29 được xác định là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp bị can Bùi Văn H, nên ngày 20/12/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 54/QĐ- CSĐT trả lại các tài sản trên cho bị can H.
01 giấy phép lái xe hạng C, số: 880192752963, ngày 09/02/2019 mang tên Bùi Văn H (xác định là giả), hiện đang được lưu giữ theo hồ sơ vụ án.
01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô số 6275544, ngày 2/6/2020 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 4701D chi nhánh Đắk Lắk cấp ngày 2/6/2020 cho xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 (xác định là giả), hiện đang được lưu giữ theo hồ sơ vụ án.
Đối với chiếc điện thoại bị can sử dụng để đặt làm giả giấy phép lái xe và giấy chứng nhận kiểm định, bị can đã làm mất nên cơ quan điều tra không thu giữ được.
Tại bản cáo trạng số 20/CTr - VKS ngày 17 tháng 3 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp để xét xử bị can Bùi Văn H về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội:“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là đúng và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Văn H về tội:“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
Bị cáo Bùi Văn H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
Bị cáo Bùi Văn H từ 6 tháng đến 9 tháng tù.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của hai tôi từ 03 năm đến 03 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Đối với 01 xe ô tô tải nhãn hiệu SYM, loại 2,5 tấn, số khung: RPGCL35YLFV100223, số máy: JX493ZQ4A*DC194462* biển kiểm soát 47C- 193.29 được xác định là tài sản sở hữu hợp pháp Bùi Văn H, nên ngày 20/12/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 54/QĐ-CSĐT, trả lại tài sản cho các chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với 01 giấy phép lái xe hạng C, số: 880192752963, ngày 09/02/2019 mang tên Bùi Văn H (xác định là giả); 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô số 6275544, ngày 2/6/2020 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 4701D chi nhánh Đắk Lắk cấp ngày 2/6/2020 cho xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 (xác định là giả), đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.
Tại phiên toà bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’lấp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.
[2]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
Do cần giấy phép lái xe ô tô để tham gia giao thông nên vào khoảng tháng 02/2019, Bùi Văn H sử dụng điện thoại di động của mình truy cập mạng xã hội facebook (H không nhớ tên tài khoản và không biết người sử dụng tài khoản) đặt làm 01 giấy phép lái xe giả, hạng C với giá 6.000.000 đồng, sau đó H nhận được 01 giấy phép lái xe ô tô giả hạng C số: 880192752963, cấp ngày 09/02/2019. Đến tháng 7/2019 chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu SYM, biển số kiểm soát: 47C-193.29 của Bùi Văn H đến thời hạn đăng kiểm nhưng do không có tiền để đi đăng kiểm xe theo quy định nên H tiếp tục sử dụng điện thoại di động truy cập mạng xã hội facebook, zalo để tìm kiếm người làm giấy tờ giả, sau đó H đặt tài khoản tên “Võ Văn K” làm giả cho H 01 giấy chứng nhận kiểm định cho xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 với giá 3.315.000 đồng. Ngày 11/6/2020 H nhận được 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô giả số: 6275544, do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 4701D chi nhánh Đắk Lắk cấp ngày 2/6/2020 cho xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29.
Sau khi có giấy phép lái xe ô tô và giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô giả, Bùi Văn H đã sử dụng hai loại giấy tờ này để điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 tham gia giao thông kinh doanh vận tải hàng hóa. Đến ngày 06/9/2020 Bùi Văn H điểu khiển xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 đi từ tỉnh Đắk Lắk về tỉnh An Giang để chở hàng về tỉnh Đắk Lắk, khi đi đến km 1933 - QL14 thuộc xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông thuộc Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Nông kiểm tra, phát hiện.
Tại kết luận giám định số 184/GĐTL- PC09, ngày 21/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Giấy phép lái xe và giấy chứng nhận kiểm định gửi đến giám định không phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Do đó, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Bùi Văn H phạm tội“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, quy định tại khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự và tội“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, đối với tội“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp truy tố bị cáo với tình tiết định khung hình phạt là “Làm từ 02 đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác”quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ. Bởi lẽ, hành vi của bị cáo Bùi Văn H làm giả 01 giấy phép lái xe ô tô và 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô ở hai thời điểm khác nhau, mỗi thời điểm hành vi của bị cáo đã cấu thành tội phạm độc lập, chứ không phải cùng một thời điểm bị cáo làm giả cùng một lúc 02 tài liệu hoặc giấy tờ khác. Nên Tòa án chỉ xét xử bị cáo Bùi Văn H về tội“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung hình phạt là “Phạm tội 02 lần trở lên”quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự là phù hợp, có căn cứ và đúng pháp luật.
Tại khoản 1, khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.
………………
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
………………
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
………………
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” [3]. Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của cơ quan Nhà nước. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật; xâm phạm trật tự quản lý hành chính, sự hoạt động đúng đắn, bình thường và uy tín của cơ quan Nhà nước trong quản lý hành chính; làm mất trật tự an toàn xã hội; bị toàn xã hội lên án nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo đã gây ra để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.
[4]. Về tình tiết định khung hình phạt:
Hành vi“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên bị xét xử ở khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự Hành vi “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” của bị cáo vi phạm tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” nên bị xét xử ở điểm b khoản 2 Điều 341của Bộ luật Hình sự
[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6]. Về hình phạt:
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân biết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.
[7]. Các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:
Đối với 01 xe ô tô tải nhãn hiệu SYM, loại 2,5 tấn, số khung: RPGCL35YLFV100223, số máy: JX493ZQ4A*DC194462* biển kiểm soát 47C- 193.29 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp Bùi Văn H, nên ngày 20/12/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 54/QĐ-CSĐT trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp nên cần chấp nhận.
Đối với 01 giấy phép lái xe giả hạng C, số: 880192752963, cấp ngày 09/02/2019 mang tên Bùi Văn H; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô số 6275544 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 4701D chi nhánh Đắk Lắk cấp ngày 2/6/2020 cho xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29, qua giám định kết luận không phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành là vật chứng vụ án nên cần tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.
[8]. Đối với người sử dụng tài khoản zalo tên “Võ Văn K” đã làm giả cho Bùi Văn H 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô, có địa chỉ: Đường N1, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương nhưng trong quá trình điều tra không có thông tin về người này. Do đó, Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk R’lấp tách ra để tiếp tục xác minh, khi có kết quả sẽ lý sau sau nên không đề cập giải quyết.
[9]. Xét quan điểm và đường lối xử lý của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và các biện pháp tư pháp, đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận. Đối với tội“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp truy tố bị cáo Bùi Văn H với tình tiết định khung hình phạt là “Làm từ 02 đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác”quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận và chỉ xét xử bị cáo về tội“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung hình phạt là “Phạm tội 02 lần trở lên”quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
[10]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”
2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Căn cứ khoản 1 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 09 (chín) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của hai tội là 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 54/QĐ-CSĐT ngày 20/12/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp trả chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu SYM, loại 2,5 tấn, số khung: RPGCL35YLFV100223, số máy: JX493ZQ4A*DC194462* biển kiểm soát 47C-193.29 cho bị cáo Bùi Văn H là chủ sở hữu hợp pháp.
Tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án đối với: 01 giấy phép lái xe giả hạng C, số: 880192752963, cấp ngày 09/02/2019 mang tên Bùi Văn H; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xe ô tô số 6275544 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 4701D chi nhánh Đắk Lắk cấp ngày 2/6/2020 cho xe ô tô biển kiểm soát 47C-193.29 (Hai loại giấy tờ không do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội: Buộc bị cáo Bùi Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 37/2021/HS-ST ngày 30/06/2021 về tội làm giả tài liệu, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 37/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về