Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 304/2021/HSST ngày 21 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS ngày 11/01/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đạt T, sinh ngày 03 tháng 4 năm 1987 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: ấp T, xã Đ, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Họ và tên cha: Không rõ; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1957; Gia đình có bốn anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Họ và tên vợ: Đỗ Hồng M, sinh năm 1999 (đã ly hôn), Bị cáo có 01 con sinh năm 2014.

Tiền án: Ngày 20/9/2016 bị Toà án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp Tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/02/2017 (bị cáo chưa nộp án phí); Ngày 25/10/2017 bị Toà án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp Tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/7/2018 (bị cáo chưa nộp án phí).

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 09/3/2004 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp Tài sản”; Ngày 06/8/2008 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”. Ngày 26/10/2011 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Trảng Bom Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh (cai nghiện) bắt buộc; Ngày 17/01/2022 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp Tài sản” (án chưa có hiệu lực pháp luật).

Bị cáo bị giam, giữ từ ngày 28/8/2021 (có mặt)

2. Nguyễn Thanh S, sinh ngày 09 tháng 01 năm 1988 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: ấp T, xã B, huyện Trảng Bom, Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Họ và tên cha: Nguyễn Văn H, sinh năm 1959; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1961; Gia đình có sáu anh chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 24/6/2010, bị Uỷ ban nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai ra quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma tuý tỉnh Đồng Nai trong thời hạn 24 tháng (đã chấp hành xong); Ngày 29/8/2015 bị Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý (đã chấp hành xong). Bị cáo bị giam, giữ từ ngày 27/8/2021. Ngày 05/9/2021 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đạt T và Nguyễn Thanh S là bạn bè quen biết, cùng nghiện ma túy. Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 27/8/2021 S gọi điện thoại cho T hỏi mua ma tuý với giá 500.000 đồng thì T đồng ý và hẹn S đến khu vực suối tại đường Đinh Tiên Hoàng thuộc khu phố 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom để giao ma tuý. Sau đó, T điều khiển xe môtô biển số 60B8-009.11 (xe mượn của chị Cao Thị Phương Kiều) đến khu vực Cổng 11, thành phố Biên Hoà gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch nhân thân) hỏi mua 500.000 đồng ma tuý và được người phụ nữ bán cho 01 đoạn ống nhựa màu đen bên trong có 06 đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín chứa chất ma tuý (Heroine), T đem ma tuý về cất giấu trong người. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, T đến tại khu vực suối trên đường Đinh Tiên Hoàng để gặp S và bán cho S 01 đoạn ống nhựa màu đen, bên trong có 05 đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín chứa chất ma tuý, với giá 500.000 đồng. Sau khi mua ma tuý của T, S cất giấu ma tuý trong người rồi điều khiển xe môtô biển số 60L3.2757 đi về, còn T ở lại khu vực suối trên đường Đinh Tiên Hoàng sử dụng hết số ma tuý còn lại chứa trong 01 đoạn ống nhựa. Khi S đang đi trên đường Đinh Tiên Hoàng thì bị Công an thị trấn Trảng Bom tiến hành kiểm tra phát hiện S đang cất giấu ma tuý, S khai nhận số ma tuý trên vừa mua của T. Công an thị trấn Trảng Bom đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, đồng thời tiến hành bắt giữ T và chuyển hồ sơ đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom xử lý theo quy định.

Ngày 29/8/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định trưng cầu giám định số ma túy thu giữ nên trên. Tại bản kết luận giám định số 1771/KLGĐ-PC09 ngày 05/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai về đối tượng giám định: 01 phong bì được niêm phong vẫn còn nguyên vẹn, trên phong bì có chữ ký ghi họ tên Nguyễn Thanh S và hình dấu tròn màu đỏ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Sau khi mở niêm phong, bên trong phong bì có 05 (năm) đoạn ống nhựa hàn kín chứa chất bột màu trắng.

Kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1259 gam, loại: Heroine.

Ngày 04/9/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thanh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và Nguyễn Đạt T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quá trình điều tra T, S đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm:

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã thu giữ 05 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu (đã niêm phong) bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 đoạn ống nhựa màu đen dài khoảng 10cm; 01 xe môtô biển số 60L3-2757; 01 điện thoại Nokia số sim 0973.512.933 thu giữ của Nguyễn Thanh S; 01 điện thoại di động Nokia 105 số sim 0355.355.24, 01 xe môtô biển số 60B8-009.11, số tiền 700.000 đồng thu của Nguyễn Đạt T.

Ngày 29/11/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã ra Quyết định xử lý vật chứng:

+ Đối với xe môtô biển số 60B8-009.11 của chị Cao Thị Xuân Ku và xe môtô biển số 60L3-2757 của anh Trần Anh D, số tiền 200.000 đồng, 01 sim điện thoại số 0399.233.191 của T, do không liên quan đến vụ án nên đã trả lại cho chủ sở hữu.

+ Đối với 01 gói ma tuý còn lại sau giám định (đã niêm phong); 01 điện thoại Nokia số sim 0973.512.933; 01 điện thoại di động Nokia 105 số sim 0355.355.249; 01 đoạn ống nhựa màu đen dài khoảng 10cm và số tiền 500.000 đồng là vật chứng vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai tạm giữ.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS-TB ngày 17/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để xét xử: Đối với bị cáo Nguyễn Đạt T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm q, khoản 2, Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Đối với Nguyễn Thanh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đạt T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm q, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Đạt T từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Xử lý vật chứng: Đối với 02 (hai) điện thoại di động thu giữ của các bị cáo; số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng); 01 đoạn ống nhựa màu đen dài khoảng 10cm và số ma túy còn lại sau giám định đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng các bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tụng tố tụng: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử cũng như tại phiên tòa, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ, quyền được bào chữa và tự bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều phù hợp.

[2] Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 13 giờ ngày 27/8/2021, tại khu vực đường Đinh Tiên Hoàng thuộc khu phố 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Đạt T đã có hành vi mua ma túy để sử dụng và bán cho Nguyễn Thanh S với giá 500.000 đồng. Sau khi mua ma túy từ Nguyễn Đạt T thì Nguyễn Thanh S bị phát hiện bắt quả tang có hành vi tàng trữ 0,1259 gam ma túy loại Heroine trong người mục đích để sử dụng.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, trực tiếp là hoạt động mua bán và tàng trữ trái phép. Ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây nguy hại đến sức khỏe, phẩm giá con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Nhưng với mục đích đáp ứng nhu cầu cá nhân, có chất ma túy để sử dụng mà các bị cáo đã bất chấp những quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần có mức hình phạt đủ nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng phạt, răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết định khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[4.1] Bị cáo Nguyễn Đạt T có 02 (hai) tiền án chưa được xóa án tích, nay lại thực hiện hành vi phạm tội. Do đó hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm q, khoản 2, Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4.2] Bị cáo Nguyễn Thanh S có hành vi tàng trữ 0,1259 gam ma túy loại Heroin. Do đó hành vi của bị cáo S đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4.3] Bị cáo Nguyễn Đạt T, Nguyễn Thanh S có nhân thân xấu. Tuy nhiên quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét các tình tiết này khi lượng hình phạt đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Đối với số ma túy sau giám định đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong số 1771/PC09-GĐMT ngày 05/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai là vật chứng cấm tàng trữ; 01 đoạn ống nhựa màu đen dài khoảng 10cm không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5.2] Đối với 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo T và 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo S là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) là số tiền thu lợi bất chính nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: Các bị cáo mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về các vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người phụ nữ có hành vi bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Đạt T, do bị cáo T không biết tên tuổi và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục xác minh làm rõ, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng và án phí phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

1.1 Căn cứ điểm q, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đạt T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đạt T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2021.

1.2 Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị áp giải thi hành án, nhưng được trừ vào thời hạn bị cáo bị giam giữ từ ngày 27/8/2021 đến ngày 05/9/2021.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

2.1 Tịch thu và tiêu hủy: số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong số 1771/PC09-GĐMT ngày 05/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai và 01 đoạn ống nhựa màu đen dài khoảng 10cm.

2.2 Tịch thu thu nộp vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động có Model: TA – 1010 kèm theo sim điện thoại có số seri: 8401 2011 3386 8980; 01 điện thoại di động có Model: TA – 1174 kèm theo sim điện thoại có số seri:

8984 04800 00263 16398 và số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng).

(các vật chứng và số tiền trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, Tài sản ngày 20/12/2021; biên lai thu tiền số 0005041 ngày 14/12/2021).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Đạt T, Nguyễn Thanh S mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2022/HS-ST

Số hiệu:22/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về