Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2022/TLST-HS, ngày 10 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo:

Hoàng Văn D, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1992, tại huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa lớp 11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn C và bà Lăng Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo đang bị tạm giam tính từ ngày tạm giữ 18/5/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định đến nay, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nông Văn L, sinh năm 1993; vắng mặt 2. Anh Dương Văn L, sinh năm 1992; vắng mặt 3. Anh Cung Văn L, sinh năm 1993; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 16 giờ 20 phút ngày 18/5/2022, tổ công tác Công an huyện Tràng Định đến phòng trọ số 3 nhà trọ K tại thôn N, xã Đ, huyện T để triệu tập Hoàng Văn D (trú tại thôn N, xã Đ) để xét nghiệm ma túy thì phát hiện đầu giường ngủ trong phòng của D có 02 gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng, D khai là ma túy Heroine nên tổ công tác đã lập biên bản bắt quả tang đối với Hoàng Văn D ,tang vật thu giữ gồm: thu giữ trên người của Hoàng Văn D tại túi quần bên phải có 01 bật lửa màu xanh, số tiền 3.000.000 đồng; túi quần bên trái có 01 túi nilon, 03 mảnh giấy bạc diện 2,5cm x 2,5 cm, 05 mảnh giấy trắng có dòng kẻ diện 05 cm x 05 cm, 01 chiếc kéo cán bằng nhựa màu xanh, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, có lắp sim số thuê bao 0352.825.786, 01 căn cước công công dân số 020092006823 mang tên Hoàng Văn D.

Hoàng Văn D khai nhận, do bản thân nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên từ tháng 5/2022 D đã thuê phòng trọ tại nhà trọ K để làm địa điểm bán ma túy cho các con nghiện. Bị cáo đã hai lần đi xe khách xuống khu vực thị trấn Đ, huyện C để mua ma túy Heroine với một người không rõ tên tuổi, địa chỉ đem về chia nhỏ sử dụng và bán kiếm lời. Cụ thể: Lần 1, khoảng 16 giờ, ngày 15/5/2022, bị cáo mua ma túy Heroine với giá 1.000.000 đồng đem về chia thành 10 gói nhỏ, D sử dụng hết 05 gói và ngày 16/5/2022 bán cho Dương Văn L 01 gói với giá 200.000 đồng trước cửa phòng trọ của D, 04 gói ma túy còn lại D đều bán cho các con nghiện khác với giá 200.000 đồng/gói; lần 2, khoảng 12 giờ ngày 17/5/2022, D mua một gói ma túy Heroine với giá 2.600.000 đồng về chia thành 20 gói nhỏ, D sử dụng hết 05 gói, bán 13 gói cho nhiều đối tượng nghiện khác trước cửa phòng trọ của D nhưng chỉ nhớ 03 người, cụ thể: Ngày 17/5/2022 bán cho Cung Văn L 01 gói giá 100.000 đồng; ngày 18/5/2022, bán cho Dương Văn L 01 gói với giá 200.000 đồng; cũng trong ngày 18/5/2022, bán cho Nông Văn L 03 gói giá 500.000 đồng. Còn 02 gói ma túy D chưa kịp bán.

Ti bản kết luận giám định số 171/KL-PC09 ngày 20/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: 02 gói chất bột màu trắng gửi giám định thu giữ của Hoàng Văn D đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,308 gam (đã trừ bì).

Ti kết luận giám định số 225/KL-PC09 ngày 26/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Toàn bộ số tiền 3.000.000 đồng thu giữ của Hoàng Văn D gửi giám định đều là tiền Việt Nam thật.

Ti bản Cáo trạng số 37/CT-VKSTĐ ngày 08/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố, thừa nhận do bản thân nghiện ma túy nên bị cáo đã mua ma túy về vừa để sử dụng và bán lại để quay vòng nhằm mục đích có tiền sử dụng ma túy; thừa nhận dùng điện thoại để liên lạc bán ma túy; số tiền bị thu giữ trong đó có 2.400.000 đồng là tiền mua bán ma túy cho những người nghiện bị cáo nhớ được và những người nghiện khác bị cáo không nhớ nhưng có nguồn gốc từ mua bán ma túy, còn 600.000 đồng là tiền của bị cáo đi làm thuê có được.

Phn luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251; đề nghị áp dụng các Điều 38, Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền; về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy đã bị thu giữ, vật chứng không có giá trị sử dụng; tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước tài sản dùng vào việc phạm tội, tiền do thu lời bất chính và bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Phn tranh luận, bị cáo nhất trí với đề nghị và không có ý kiến tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát.

Li nói sau cùng, bị cáo xin được mức án nhẹ để sớm được trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng, và trở thành người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên huyện Tràng Định trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt những người làm chứng. Xét thấy việc vắng mặt người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục xét xử vụ án.

[3] Về hành vi cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở khẳng định, bị cáo Hoàng Văn D đã có hành vi 02 lần đi mua trái phép chất ma túy Heroine về chia nhỏ để vừa sử dụng, vừa bán kiếm lời nhiều lần cho các đối tượng nghiện thu lợi bất chính với số tiền 3.400.000 đồng, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo và để có mức án phù hợp với hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ nhận thức và thực hiện hành vi rất nghiêm trọng với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, do đó bị cáo phải bị tuyên là có tội và chịu hình phạt. Ngoài ra, Hội đồng xét xử đánh giá tính chất, hành vi, các tình tiết về nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng:

[5] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội độc lập, không có đồng phạm, nguyên nhân do bị cáo nghiện ma túy, lười lao động, bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán ma túy Heroine nhiều lần cho các đối tượng nghiện và phục vụ cho nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân; về tình tiết tăng nặng, ngoài tình tiết định khung, bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào khác; về tình tiết giảm nhẹ, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; về nhân thân, bị cáo khai nghiện ma túy nhưng chưa bao giờ bị xử lý hành chính hoặc bị cơ quan nào xử lý và kỷ luật. Trên cơ sở đánh giá này, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới đủ tính răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Qua kết quả xác minh bị cáo không có bất kỳ tài sản gì, bản thân nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng, áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, vật chứng không có giá trị sử dụng; đối với điện thoại dùng vào việc phạm tội cần tịch thu hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước; đối với số tiền thu giữ của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo thừa nhận trong số tiền thu giữ có 600.000 đồng là tiền do bị cáo lao động mà có, do đó cần trả lại cho bị cáo, còn 2.400.000 đồng là tiền có được do mua bán ma túy, nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Áp dụng biện pháp tư pháp truy thu đối với số tiền 1.000.000 đồng do bị cáo bán ma túy. Đối với thẻ căn cước của bị cáo cần trả lại cho bị cáo.

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại khu vực thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn không rõ tên tuổi, địa chỉ nên không có căn để điều tra, xử lý. Đối với các đối tượng nghiện ma túy mua của bị cáo đã được Công an huyện Tràng Định xử lý hành chính bằng hình thức cảnh cáo là đúng quy định.

[9] Bị cáo là người bị kết án thì phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 47; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136; các Điều 331, 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

n cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/5/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1.Tịch thu tiêu hủy: 01(một) phong bì, mặt trước ghi “Tang vật nghi ma túy thu giữ khi bắt quả tang Hoàng Văn D ngày 18/5/2022” có chữ ký và đóng dấu theo quy định bên trong có: 01 ( một) gói giấy đựng 0,286 gam Heroine; 01 ( một) bật lửa ga màu xanh nhãn hiệu Thống Nhất; 03 ( ba) mảnh giấy bạc màu vàng diện tích 2,5 x, 2,5 cm; 05 (năm) mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ diện 05 x 05 cm; 01 (một) kéo kim loại cán bằng nhựa màu xanh than;

3.2. Tịch thu và hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu OPPO màu đen, gắn 01 sim có số thuê bao 0352.825.78, số IMEI: 86522042727291, đã qua sử dụng.

- Tịch thu vào ngân sách Nhà nước số tiền 2.400.000 đồng (ba triệu bốn trăm nghìn). Truy thu đối với bị cáo số tiền 1.000.000 đồng ( một triệu đồng).

3.3. Trả lại cho bị cáo số tiền 600.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Trả cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân số 020092006823 mang tên Hoàng Văn D.

(Vật chứng được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/8/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và Công an huyện Tràng Định).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Văn D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Hoàng Văn D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về