Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 24/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 723/2022/HSST ngày 03 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6550/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Phạm Trung T (tên gọi khác: không có); giới tính: nam; sinh năm: 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký HKTT: 245/59 XVNT, Phường MB, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Thợ xăm; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không có; con ông PHT (chết) và bà NTH (chết); hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; tiền án: không có.

Nhân thân: Ngày 20/12/2011 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 11/12/2013.

Tiền sự: Ngày 14/9/2021 bị Công an phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 16/9/2021.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 10/01/2022 (có mặt).

2. Nguyễn Thị Kim C (tên gọi khác: không có); giới tính: nữ; sinh năm: 1980 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký HKTT: 236/19/3 ĐBP, Phường MB, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 606/76/9 Quốc lộ MB, phường HBP, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không có; con ông NVL và bà TTN (chết); hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; tiền sự: không có.

Tiền án: Ngày 24/8/2017 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 30/01/2021.

Nhân thân: Ngày 20/11/1996 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp tài sản của công dân”.

Bị bắt tạm giam từ ngày 10/01/2022 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Hữu B, sinh năm: 1972 Trú tại: 245/59 XVNT, Phường MB, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bào chữa:

1. Ông NTC – Luật sư Công ty Luật TNHH MTV CT thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Phạm Trung T (có mặt).

2. Bà TTHC – Luật sư Văn phòng luật sư HTH thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Thị Kim C (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 10 phút ngày 10/01/2022, tại khu vực trước trường tiểu học Thanh Đa, Phường 27, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, công an phát hiện Phạm Trung T đang điều khiển xe gắn máy biển số 59M2-xxxxx có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Phát hiện, thu giữ trong túi đeo chéo màu xanh – đen của T 01 gói nylon màu đen chứa tinh thể không màu, qua giám định là Methamphetamine, khối lượng 9,9618 gram. T khai số ma túy này do Nguyễn Thị Kim C giao cho T đi bán cho đối tượng tên P (không rõ lai lịch) với giá 3.300.000 đồng.

Căn cứ lời khai của T, khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, công an phát hiện Nguyễn Thị Kim C tại khu vực chân cầu Bình Triệu 2, Phường 26, quận Bình Thạnh nên tiến hành kiểm tra. C tự lấy trong túi áo khoác bên ngực trái 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là Methamphetamine, khối lượng 9,9794 gram và 01 gói nylon chứa tinh thể không màu trong túi đeo của C, kết quả giám định là Methamphetamine, khối lượng 9,8840 gram.

Nguyễn Thị Kim C khai nhận số ma túy trên mua của đối tượng Mập (không rõ lai lịch) ở Gò Vấp về phân nhỏ bán lại kiếm lời. Sau khi quen biết T, C nhờ T đi giao ma túy với tiền công từ 100.000 đến 200.000 đồng/lần. T và C đều xác nhận, T đã 02 lần đi giao ma túy cho C, lần 01 giao 5 gram giá 1.700.000 đồng cho đối tượng Minh (không rõ lai lịch), lần 01 giao khoảng 10 gram cho P tại thành phố Thủ Đức với giá 3.300.000 đồng nhưng chưa kịp giao thì bị bắt quả tang.

Khám xét nơi ở của T tại nhà số 245/59 XVNT, Phường MB, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ:

- 01 cân điện tử dưới sàn nhà.

- 01 túi nylon màu đen trong tủ kính chứa:

+ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, khối lượng 2,8307 gram.

+ 01 gói nylon chứa nhiều viên nén màu xanh rêu, kết luận giám định có khối lượng 31,9826 gram, không tìm thấy ma túy.

+ 01 hộp nhựa màu hồng trên bề mặt in chữ “Collgen” đựng nhiều viên nén màu xám, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine, có tổng khối lượng 34,1451 gram.

+ 01 hộp sắt hiệu “ALTOIDS” đựng 06 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 4,6401 gram.

+ 01 khẩu trang y tế gói một giấy mà trắng bên trong quấn 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, khối lượng 12,7627 gram.

+ 01 gói nylon màu trắng đựng 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, khối lượng 125,32 gram.

+ 01 túi giấy màu xanh đựng 01 cân điện tử và 01 nỏ thủy tinh.

Quá trình điều tra, T khai số ma túy trên là của đối tượng Vinh (không rõ lai lịch) giao cho T vào ngày 09/01/2022 tại chung cư NĐC, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh để T bán ma túy giúp Vinh theo cách thức: Khi nào có người mua ma túy thì Vinh sẽ báo cho T biết để đi giao.

Kết quả xác minh tại chung cư NĐC có ông VLV, sinh năm 1967 trú tại chung cư 1A1B NĐC. Tuy nhiên, tiến hành nhận dạng thì Phạm Trung T xác định không phải đối tượng Vinh đã giao ma túy cho T.

Khám xét nơi ở của C tại nhà số 606/76/9 Quốc lộ MB, phường HBP, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ: 01 cân điện tử, 01 ống hút nhựa màu xanh một đầu hàn kín và một đầu bị cắt xéo.

Tại bản cáo trạng số 460/CTr-VKSTPHCM-P1 ngày 07/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Bị cáo Phạm Trung T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Thị Kim C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Đối với các đối tượng Vinh, Mập và các đối tượng đã mua mua túy của C và T do các bị cáo khai không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố nêu quan điểm luận tội:

- Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng như nội dung bản cáo trạng.

- Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị xử phạt:

+ Phạm Trung T 20 năm tù, buộc bị cáo nộp phạt số tiền 20.000.000 đồng.

+ Nguyễn Thị Kim C từ 16 đến 17 năm tù, buộc bị cáo nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng.

- Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy ma túy, túi nylon, hộp sắt, hộp nhựa. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng, điện thoại thu giữ của các bị cáo. Riêng điện thoại hiệu Oppo không liên quan hành vi phạm tội đề nghị trả cho bị cáo C. Xe gắn máy biển số 59M2-xxxxx, do ông Nguyễn Hữu B không biết hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị trả lại cho ông B.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Trung T nêu ý kiến: Thống nhất về tội danh và điều khoản áp dụng truy tố đối với các bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo có thái thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải, số lượng ma túy đã thu hồi, chưa phát tán ra xã hội nên hậu quả đã được ngăn chặn. Bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo C và đối tượng Vinh để hưởng tiền công, mới thu lợi bất chính 100.000 đồng. Về nhân thân, cha mẹ bị cáo đều đã mất bản thân sống chung với cậu ruột, hoàn cảnh khó khăn. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đồng thời miễn hình phạt bổ sung và tuyên trả chiếc xe gắn máy biển số 59M2-xxxxx cho cậu của bị cáo là ông Nguyễn Hữu B.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Kim C nêu ý kiến: Thống nhất quan điểm luận tội của Viện kiểm sát và luật sư đồng nghiệp. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mặc dù bị cáo mua ma túy của tối tượng Mập 02 lần nhưng mới bán lại được 5 gram, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, mẹ đã mất, cha tuổi cao sức yếu để giảm cho bị cáo một mức hình phạt đồng thời giảm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, điều tra viên và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản khám xét, biên bản thu giữ vật chứng và các biên bản hoạt động điều tra khác có đủ cơ sở xác định: Từ cuối năm 2021, Nguyễn Thị Kim C bắt đầu mua ma túy của đối tượng tên Mập (không rõ lai lịch) sau đó chia nhỏ bán lại cho người nghiện. Để giúp sức trong việc mua bán ma túy, C thuê Phạm Trung T đi giao ma túy với tiền công từ 100.000 đồng – 200.000 đồng/lần. C đã 02 lần mua bán ma túy với Mập, cụ thể:

- Đầu tháng 01/2022, C mua 12,5 gram Methamphetamine với giá 5.000.0000 đồng. C giao cho T đi bán cho đối tượng Minh (không rõ lai lịch) khoảng 5 gram với giá 1.700.000 đồng với tiền công 100.000 đồng, còn lại C sử dụng.

- Lần 2 vào khoảng 15 giờ 40 phút ngày 10/01/2022, C mua 30 gram Methamphetamine sau đó về phân thành 03 gói. Sau đó C đưa 01 gói cho T đi bán cho đối tượng P (không rõ lai lịch) với giá 3.300.000 đồng nhưng T chưa kịp giao thì bị bắt quả tang.

Ngoài giúp C mua bán ma túy, T còn giữ ma túy tại chỗ ở và bán giúp đối tượng Vinh (không rõ lai lịch).

Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Trung T và Nguyễn Thị Kim C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gieo rắc nọc độc, làm tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo Phạm Trung T tham gia mua bán trái phép chất ma túy, khi bắt quả tang và qua khám xét thu giữ quả tang 189,6604 gram ma túy ở thể rắn (gồm 155,5153 gram MDMA; 34,1451 gram Methamphetamine, MDMA, Ketamine), ngoài ra trước khi bị bắt bị cáo còn phụ giúp Nguyễn Thị Kim C bán 5 gram ma túy để hưởng tiền công 100.000 đồng. Do đó cần áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với bị cáo với tình tiết định khung tăng nặng là “Phạm tội từ 02 lần trở lên”.

Bị cáo Nguyễn Thị Kim C tham gia mua bán trái phép chất ma túy, khi bắt quả tang thu giữ của bị cáo 19,8634 gram Methamphetamine, ngoài ra bị cáo phải chịu trách nhiệm số ma túy đã đưa cho Phạm Trung T bán trước đây là 5 gram Methamphetamine và 9,9618 gram Methamphetamine T chưa kịp bán, tổng cộng 34,8252 gram. Do đó cần áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với bị cáo.

Mặc dù, khi lượng hình Hội đồng xét xử cân nhắc, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn thể hiện ăn năn hối cải như lời bào chữa của các luật sư. Tuy nhiên, xét các bị cáo đều có nhân thân xấu, trong đó bị cáo C đã bị xét xử về tội rất nghiêm trọng liên quan đến ma túy chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nên lần này phạm tội thuộc trường tái phạm nguy hiểm nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo.

Ngoài hình phạt chính, buộc các bị cáo nộp phạt một khoản tiền nhất định để nộp Ngân sách Nhà nước.

[3] Về xử lý vật chứng và đồ vật thu giữ:

- Ma túy là vật cấm lưu hành; túi nylon, hộp sắt, hộp nhựa không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- Điện thoại di động hiệu Energizer, Samsung, Iphone và cân điện tư là phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, tất cả còn giá trị sử dụng nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

- Số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền thu lợi bất chính từ hành vi mua bán ma túy nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

- Điện thoại di động hiệu Oppo thu giữ của Nguyễn Thị Kim C, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo C nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Xe gắn máy biển số 59M2-xxxxx thu giữ của Phạm Trung T, qua xác minh xe trên của ông Nguyễn Hữu B (cậu bị cáo) mua lại của ông NQD nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Bị cáo mượn xe trên của ông B và ông B không biết hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho ông B.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố các bị cáo Phạm Trung T và Nguyễn Thị Kim C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Phạm Trung T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2022.

Buộc bị cáo T nộp phạt số tiền 15.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52;

điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Nguyễn Thị Kim C 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2022.

Buộc bị cáo C nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

* Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 618-147/22 Bình Thạnh gói 1 có chữ ký của giám định viên Thiếu tá NXS (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 618-147/22 Bình Thạnh gói 2 có chữ ký của giám định viên Thiếu tá NXS (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 618-147/22 Bình Thạnh gói 3 có chữ ký của giám định viên Thiếu tá NXS (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 158(640) (1) có chữ ký của giám định viên Đại úy HTT (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 158(640) (2) có chữ ký của giám định viên Đại úy HTT (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 158(640) (3) có chữ ký của giám định viên Đại úy HTT (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 158(640) (4) có chữ ký của giám định viên Đại úy HTT (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 158(640) (5) có chữ ký của giám định viên Đại úy HTT (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 gói giấy niêm phong bên ngoài ghi vụ 158(640) (6) có chữ ký của giám định viên Đại úy HTT (PC09) và Điều tra viên LCV, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 túi đeo chéo màu xanh rêu, đã qua sử dụng.

+ 01 áo khoác màu xanh, đã qua sử dụng.

+ 01 gói nylon màu đen; 01 ống hút nhựa màu xanh, hàn kín một đầu; 01 túi nylon màu đen; 01 hộp nhựa màu hồng có ghi chữ “Collgen”; 01 hộp sắt có ghi chữ “ALTOIDS”; 01 khẩu trang y tế đựng một giấy màu; 01 túi giấy màu xanh; 01 nỏ thủy tinh.

+ 01 túi đeo chéo màu xanh có ghi chữ Haoshuai.

* Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước:

+ Số tiền 200.000 đồng;

+ 01 điện thoại di động hiệu Energizer nguyên khối không kiểm tra được số Imei, số sim 070399xxxx và 097630xxxx (không kiểm tra số sim do không có nguồn điện);

+ 03 cân điện tử;

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xanh số imei: 353060109539376 (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện, imei ở khay sim:

353060109539376);

+ 01 điện thoại di động Samsung màu đen, bể màn hình, số Imei:

352808092815943, số trên thẻ sim 9105 (không kiểm tra imei do không có nguồn điện).

* Trả lại bị cáo Nguyễn Thị Kim C: 01 điện thoại di động hiệu OPPO số Imei: 865545055466930, số trên thẻ sim 8368 và 8369 (không kiểm tra imei do không có nguồn điện) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

* Trả lại ông Nguyễn Hữu B: Xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại MSX125, dung tích xilanh 125, biển số 59M2-xxxxx, SK: MLHJC7591H5001018, SM: JC75E2011150 (không gương, dàn nhựa, xe bị tháo nhiều chi tiết; xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra).

(Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2022/531 ngày 15/8/2022 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền ngày 16/02/2022 của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam).

Mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về