Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 113/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 113/2022/HS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 108/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 126/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Phạm Quốc T, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1990; tại: Sóc Trăng; nơi đăng ký thường trú: ấp K, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: mua bán; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quốc H (đã chết) và bà Đinh Thị Kim L, sinh năm 1965; vợ tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm: 1999, con: 01 người, sinh năm: 2018; tiền án: không; tiền sự: có 01 tiền sự, vào ngày 07/5/2021, bị Uỷ ban nhân dân xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Giáo dục tại xã, phường, thị trấn” thời hạn 03 tháng, chưa chấp hành; về nhân thân: Vào ngày 03/02/2015, bị Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Sóc Trăng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi cá cược bằng tiền; vào ngày 16/5/2017, bị Công an huyện M, tỉnh Sóc Trăng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức đá gà mà được, thua bằng tiền; vào ngày 22/11/2019, bị Công an huyện M, tỉnh Sóc Trăng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức đá gà mà được, thua bằng tiền; (cả 03 lần T đã nộp phạt và đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính); Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2022 và chuyển tạm giam cho đến nay. (có mặt) - Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1973; (tên gọi khác: H cụt); Địa chỉ: đường N, Khóm D, Phường Z, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

2. Ông Lê Hoàng N, sinh năm: 1962; Địa chỉ: ấp K, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 12 tháng 04 năm 2022, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại khu vực trước quán cà phê K2, đường L, Phường M, thành phố S, có một số đối tượng nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy, cho nên Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy kết hợp với Công an Phường M, thành phố Sóc Trăng tiến hành kiểm tra và phát hiện Phạm Quốc T, điều khiển xe mô tô mang biển số 83X1-105.** đi từ vị trí bàn số 62 của quán cà phê K2 ra có biểu hiện nghi vấn, nên yêu cầu T dừng phương tiện để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện phía bên trong cốp xe mà T điều khiển có 01 đoạn ống nhựa màu trắng cam được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất rắn, nghi vấn là ma túy, nên niêm phong vật chứng (gói 01). Sau khi bị bắt T khai nhận còn cất giấu ma túy tại vị trí bàn số 62, trong quán cà phê K2, Lực lượng công an đã tiến hành kiểm tra tại vị trí bàn số 62 phát hiện phía dưới tấm vải trải bàn có 01 gói nilon trong được bấm dính một đầu có viền màu đỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng, nghi vấn là ma túy nên lực lượng Công an đã thu giữ niêm phong lại (gói 02), tiếp tục kiểm tra xung quanh khu vực bàn số 02 phát hiện thêm 01 gói thuốc lá hiệu Jet được để trên vách tường gần vị trí bàn số 62, quán cà phê K2, bên trong gói thuốc lá hiệu Jet có chứa 03 đoạn ống nhựa màu trắng đỏ và 02 đoạn ống nhựa màu trắng hồng, tất cả đều được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất rắn, nghi vấn là ma túy nên lực lượng Công an đã thu giữ niêm phong lại (gói 03) và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Quốc T.

Tại cơ quan điều tra Phạm Quốc T khai nhận: T là người nghiện ma túy và bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2017 đến ngày bị bắt, loại ma túy mà T sử dụng là heroin, hình thức sử dụng là chích. Do bản thân của T không có nghề nghiệp ổn định, để có tiền tiêu xài cá nhân và có ma túy sử dụng, nên vào khoảng tháng 04 năm 2022, T đã mua ma túy đem về cất giấu và phân ra thành từng bịch nhỏ để bán ma túy cho các người nghiện. Cách thức bán ma túy cho các người nghiện là khi nào có người nghiện ma túy có nhu cầu cần mua ma túy để sử dụng thì trực tiếp điện thoại vào số di động của T có số 0706364*** để hỏi mua ma túy, thì được T đồng ý bán và hẹn địa điểm giao nhận ma túy là tại khu vực quán cà phê K2, đường L, Phường M, thành phố S. Nguồn ma túy có được để T bán cho các người nghiện là do T mua của một người tên T1 Đen (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) tại khu vực Công viên B, Phường B, thành phố Sóc Trăng, với số tiền 700.000 đồng, sau khi mua túy xong thì T đem đến quán cà phê K2, đường L, Phường M, thành phố S để cất giấu nhằm mục đích để bán lại cho các người nghiện.

- Trong thời gian hoạt động mua bán trái phép chất ma túy, Phạm Quốc T đã bán trái phép chất ma túy cho các người nghiện sau:

1/. Bán ma túy cho Lê Hoàng N, sinh năm 1962, đăng ký thường trú: ấp K, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, được 02 lần cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng ngày 07 tháng 04 năm 2022, N gọi vào số điện thoại 0706364*** của T để hỏi mua 01 bịch ma túy loại heroin với giá 200.000 đồng, thì được T đồng ý bán và hẹn địa điểm giao nhận ma túy là khu vực gần quán cà phê K2, đường L, Phường M, thành phố S. Tại đây, T là người trực tiếp nhận tiền và giao 01 bịch ma túy loại heroin cho N.

- Lần thứ hai: Vào khoảng ngày 09 tháng 04 năm 2022, N gọi vào số điện thoại 0706364*** của T để hỏi mua 01 bịch ma túy loại heroin với giá 200.000 đồng, thì được T đồng ý bán và hẹn địa điểm giao nhận ma túy là khu vực Bưu điện tỉnh Sóc Trăng. Tại đây, T là người trực tiếp nhận tiền và giao 01 bịch ma túy loại heroin cho N.

2/. Bán ma túy cho Nguyễn Văn H, sinh năm 1973, đăng ký thường trú:

đường N, Khóm D, Phường Z, thành phố S, được 03 lần cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào ngày 09 tháng 04 năm 2022, H gọi vào số điện thoại 0706364*** của T để hỏi mua 01 bịch ma túy loại heroin với giá 100.000 đồng, thì được T đồng ý bán và hẹn địa điểm giao nhận ma túy là khu vực gần quán cà phê K2, đường L, Phường M, thành phố S. Tại đây, T là người trực tiếp nhận tiền và giao 01 bịch ma túy loại heroin cho H.

- Lần thứ hai: Vào ngày 11 tháng 04 năm 2022, H gọi vào số điện thoại 0706364*** của T để hỏi mua 01 bịch ma túy loại heroin với giá 100.000 đồng, thì được T đồng ý bán và hẹn địa điểm giao nhận ma túy là khu vực gần quán cà phê K2, đường L, Phường M, thành phố S. Tại đây, T là người trực tiếp nhận tiền và giao 01 bịch ma túy loại heroin cho H.

- Lần thứ ba: Vào khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 12 tháng 04 năm 2022, H gọi vào số điện thoại 0706364*** của T để hỏi mua 01 bịch ma túy loại heroin với giá 100.000 đồng, thì được T đồng ý bán và hẹn địa điểm giao nhận ma túy là khu vực bên hông nhà đường L, Khóm D, Phường M, thành phố Sóc Trăng, khi T chưa kịp giao bán ma túy cho H thì lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Số tiền mà T thu được từ hoạt động mua bán trái phép chất ma túy khoảng 200.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài cá nhân hết và một số ít ma túy để cho T sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 30/KL GDMT-KTHS ngày 15 tháng 04 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, kết luận:

- Gói 01: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1038 gam, loại Heroin.

- Gói 02: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2861 gam, loại Heroin.

- Gói 3: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,3559 gam, loại Heroin.

Về vật chứng trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 03 (ba) gói niêm phong vụ số 30/GĐMT-PC09, ngày 18/4/2022, có chữ ký ghi họ tên Giám định viên Phạm Thanh Trường S, trợ lý giám định Ngô Hoàng Lâm P, Điều tra viên Trần Văn R; 02 (hai) ống bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động màu vàng có chữ Oppo đã qua sử dụng, đã được niêm phong, ký hiệu “ĐT T”, 01 (một) hột quẹt gas màu đỏ và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda màu trắng, biển số 83X1 – 105.**. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng cách trao trả lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda màu trắng, biển số 83X1 – 105.** cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị Ngọc T.

- Tại Cáo trạng số: 101/CT-VKS.TPST ngày 22/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Phạm Quốc T tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Phạm Quốc T tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Phát biểu luận tội, Kiểm sát viên phân tích tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T, đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo Phạm Quốc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, xử phạt bị cáo T từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù; Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước tiền Việt Nam: 200.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động màu vàng có chữ Oppo đã qua sử dụng, đã được niêm phong, ký hiệu “ĐT T”; Tịch thu tiêu hủy: 03 gói niêm phong vụ số 30/GĐMT-PC09, ngày 18/4/2022, có chữ ký ghi họ tên Giám định viên Phạm Thanh Trường S, trợ lý giám định Ngô Hoàng Lâm P, Điều tra viên Trần Văn R; 02 (hai) ống bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 (một) hột quẹt gas màu đỏ.

- Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phạm Quốc T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố là đúng. Phát biểu tranh luận, bị cáo Phạm Quốc T thống nhất với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không trình bày tự bào chữa. Lời nói sau cùng bị cáo Phạm Quốc T xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tại giai đoạn điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay kH nại nên các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng và Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, người làm chứng là ông Lê Hoàng N và ông Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy, người làm chứng ông Lê Hoàng N và ông Nguyễn Văn H đã có lời khai trong hồ sơ vụ án và việc vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phạm Quốc T thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng hành vi phạm tội, không oan sai cho bị cáo; thừa nhận T bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản đối chất; Kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử xác định:

Trong khoảng thời gian từ ngày 07/4/2022 đến ngày 12/4/2022, tại nhiều địa điểm khác nhau trên địa bàn thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng bị cáo T đã nhiều lần bán ma túy cho các người nghiện, cụ thể:

- Bán ma túy cho Lê Hoàng N 02 lần, mỗi lần bán 01 bịch ma túy loại heroin với giá 200.000 đồng/bịch.

- Bán ma túy cho Nguyễn Văn H 03 lần, mỗi lần bán 01 bịch ma túy loại heroin với giá 100.000 đồng/bịch. Riêng lần thứ ba bị cáo T chưa giao ma túy cho H thì bị Công an bắt quả tang.

Ngoài ra, bị cáo Phạm Quốc T thừa nhận 03 gói ma tuý Cơ quan Công an đang giữ niêm phong lại là của bị cáo mua để bán lại cho người nghiện ma túy.

[4] Tại bản kết luận giám định số 30/KL GĐMT-KTHS ngày 15 tháng 04 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, kết luận:

- Gói 01: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1038 gam, loại Heroin.

- Gói 02: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2861 gam, loại Heroin.

- Gói 3: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,3559 gam, loại Heroin.

[5] Heroin là chất ma túy được quy định tại STT 9, Danh mục I, ban hành kèm theo Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ, quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất. Theo đó, Heroin là chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong nghiên cứu, kiểm nghiệm, giám định, điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền.

[6] Bị cáo Phạm Quốc T là người đã thành niên, không mắc bệnh lý về tâm thần hoặc một bệnh khác ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, điều khiển hành vi nên đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Bị cáo nhận thức được ma túy là chất cấm, mọi hành vi mua bán trái phép chất ma túy là xâm phạm đến khách thể được Bộ luật hình sự bảo vệ. Thế nhưng, chỉ vì hám lợi và muốn có ma túy sử dụng mà bị cáo đã mua ma túy của đối tượng tên T1 Đen về bán cho Lê Hoàng N 02 lần, bán cho Nguyễn Văn H 03 lần, riêng lần thứ ba chưa giao được ma túy thì bị bắt. Hành vi của bị cáo phạm vào tình tiết định khung hình phạt “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Như vậy, Cáo trạng số: 101/CT-VKS.TPST ngày 22/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Phạm Quốc T tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[8] Hành vi của bị cáo Phạm Quốc T là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về chất ma túy của Nhà nước được Bộ luật Hình sự bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an T xã hội tại địa phương, nên cần thiết phải xử lý thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, cũng như giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa đấu tranh và chống tội phạm này ở địa phương.

[9] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét T diện về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Phạm Quốc T như sau: Bị cáo Phạm Quốc T có nhân thân xấu, mặc dù bị cáo chưa có tiền án nhưng có 03 tiền sự đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính và 01 tiền sự chưa chấp hành. Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 03 (ba) gói niêm phong vụ số 30/GĐMT- PC09, ngày 18/4/2022, có chữ ký ghi họ tên Giám định viên Phạm Thanh Trường S, trợ lý giám định Ngô Hoàng Lâm P, Điều tra viên Trần Văn R đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 02 (hai) ống bơm kim tiêm đã qua sử dụng, 01 (một) hột quẹt gas màu đỏ là công cụ dùng để sử dụng ma túy không có giá trị nên căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động màu vàng có chữ Oppo đã qua sử dụng, đã được niêm phong, ký hiệu “ĐT T” là phương tiện phạm tội của bị cáo T nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 200.000 đồng mà T thu được từ hoạt động mua bán trái phép chất ma túy là tiền do phạm tội mà có nên buộc bị cáo giao nộp lại để tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda màu trắng, biển số 83X1 – 105.**. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng cách trao trả lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda màu trắng, biển số 83X1 – 105.** cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị Ngọc T nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[11] Theo lời khai của bị cáo T thì nguồn ma túy có được để bán cho các người nghiện là do bị cáo T mua của người tên T1 Đen (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) tại khu vực công viên Bạch Đằng, Phường 2, thành phố Sóc Trăng, với số tiền 700.000 đồng. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân, lý lịch của người tên T1 Đen này nên không có căn cứ để xem xét, xử lý hành vi của người này. Đề nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp tục xác minh nhân thân, lý lịch của người tên T1 Đen này để xử lý theo quy định của pháp luật.

[12] Kiểm sát viên đề nghị áp dụng về tội danh, điều luật, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt tù đối với bị cáo Phạm Quốc T là có căn cứ và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[14] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Điểm a, b, c Khoản 2 Điều 106, Khoản 2 Điều 136, Điều 293, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Quốc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Tuyên xử:

1. Xử phạt bị cáo Phạm Quốc T 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/4/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu huỷ: 03 (ba) gói niêm phong vụ số 30/ GĐMT-PC09, ngày 18/4/2022, có chữ ký ghi họ tên Giám định viên Phạm Thanh Trường S, trợ lý giám định Ngô Hoàng Lâm P, Điều tra viên Trần Văn R; 02 (hai) ống bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 (một) hột quẹt gas màu đỏ.

- Tịch thu và nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu vàng có chữ Oppo đã qua sử dụng, đã được niêm phong, ký hiệu “ĐT T”.

- Buộc bị cáo Phạm Quốc T giao nộp 200.000 đồng, để tịch thu và nộp Ngân sách nhà nước.

3. Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Quốc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000 đồng (bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 113/2022/HS-ST

Số hiệu:113/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về