Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 04/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 27/10/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 27 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2021/HSST ngày 15 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXX- ST, ngày 16/10/2021 đối với bị cáo:

Lê Tùng L - Sinh năm 2000; Giới tính: Nam.

- HKTT: Khu 3, phường T, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo Không; Quốc tịch: Việt Nam.

- Bố: Lê Văn S- Sinh năm 1976 (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị N - sinh năm 1980.

- Bị cáo là con duy nhất trong gia đình.

- Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/7/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các chứng cứ tài liệu được thu thập trong giai đoạn điều tra và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/7/2021, tại Khu Đương Xá 2, phường Vạn An, thành phố Bắc Ninh. Công an phường Vạn An, thành phố Bắc Ninh bắt quả tang Lê Tùng L, sinh năm 2000, trú tại Khu 3, phường T, thành phố Bắc Ninh đang giao dịch bán trái phép chất ma túy cho Đặng Văn Đ, sinh năm 1990, HKTT: Khu Đương Xá 2, phường Vạn An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu tại tay phải của Đặng Văn Đ 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (gói này được niêm phong trong bì thư ký hiệu M1 có chữ ký xác nhận của các đối tượng và người làm chứng)

- Thu tại tay phải của Lê Tùng L 01 tờ tiền Polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm ngàn đồng), tờ tiền được niêm phong trong bì thư ký hiệu M2.

Ngày 30/7/2021 thực hiện Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Tùng L tại xóm Chùa, Khu 3, phường T, thành phố Bắc Ninh, cơ quan điều tra không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại kết luận giám định số: 538/KLGĐMT- PC09 ngày 31/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

- Chất tinh thể màu trắng trong phong bì thư ký hiệu M1 có khối lượng 0,0667 gam là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine.

- Tờ tiền Polime mệnh giá 200.000đ có số sê ri DH19345487 trong bì thư ký hiệu M2 gửi giám định là tiền thật.

Tại cơ quan điều tra Lê Tùng L khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 28/7/2021, L đi nhờ xe của 01 người không quen biết đi từ khu Phúc Sơn, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh đến khu Y Na, phường Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh với mục đích mua ma túy. Tại Khu Y Na, L gặp và mua của người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy với giá 200.000đ, sau khi mua được ma túy L lấy ra một ít để sử dụng cho bản thân, số còn lại L cất vào trong người sau đó đi bộ đến nhà Đặng Văn Đ có địa chỉ tại Khu Đương Xá 2, phường Vạn An, thành phố Bắc Ninh. Đến nhà Đ lúc này có Đ và bạn của Đ là Lê Thị Tuyết, sinh năm 1986, HKTT tại: Thôn Đông Lâu, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, thấy L vào Tuyết đi ra ngoài cửa ngồi, còn Đ và L ở trong nhà nói chuyện, Đ hỏi L “Có ma túy đá không, bán cho anh 200.000đ” L bảo “” và đưa cho Đ 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, Đ cầm gói ma túy bằng tay phải do L đưa rồi đưa lại cho L tờ tiền mệnh giá 200.000đ, L cầm tiền Đ đưa thì bị lực lượng công an vào bắt quả tang.

Với nội dung trên, tại Cáo trạng số: 148/CT- VKSTPBN ngày 13/10/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Lê Tùng L tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của BLHS.

Tại phiên tòa, Lê Tùng L thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân đúng như nội dung bản cáo trạng mô tả, bị cáo thừa nhận hành vi mua 01 túi nilon ma túy là chất Methamphetamine, sau khi lấy ra sử dụng một ít cho bản thân, số còn lại có khối lượng 0,0667gam đem bán lại cho Đặng Văn Đ với giá 200.000đ vào đêm ngày 28/7/2021 tại nhà của Đ ở khu Đương Xá 2, phường Vạn An, thành phố Bắc Ninh là phạm tội, cáo trạng truy tố bị cáo tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng.

Về nguồn gốc túi nilon ma túy bán cho Đặng Văn Đ, bị cáo cho biết mua của một người đàn ông không quen biết ở khu Y Na, phường Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh với giá 200.000đ, còn người đàn ông là ai, tên tuổi là gì, ở đâu bị cáo không nắm được.

Cũng tại phiên tòa sau khi đánh giá tính chất, tác hại của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Lê Tùng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo từ 26 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 29/7/2021. Miễn hình phạt bổ sung là “Phạt tiền” cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.

+ Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 200.000đ là tiền do phạm tội mà có.

Trong phần tranh luận bị cáo thừa nhận tội lỗi, không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Tố tụng: Việc khởi tố, điều tra, truy tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn được các cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ đúng quy định của BLTTHS, hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can, người làm chứng và các hoạt động thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội được Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có việc mớm cung, ép cung hay dùng nhục hình.

2. Tội danh: Lời nhận tội của Lê Tùng L tại phiên tòa thống nhất với biên bản phạm pháp quả tang, phù hợp với lời khai của đối tượng mua ma túy là Đặng Văn Đ và người làm chứng là chị Lê Thị Tuyết và anh Đặng Thế Anh cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như: Vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Ninh, đủ căn cứ khẳng định: Hành vi mua hơn 0,0667gam ma túy là chất Methamphetamine của một người đàn ông không quen biết, với giá 200.000đ, sau khi lấy ra sử dụng 01 phần số còn lại có trọng lượng 0,0667gam đem bán lại cho Đặng Văn Đ với giá 200.000đ vào đêm ngày 28/7/2021 tại khu Đương Xá 2, phường Vạn An, thành phố Bắc Ninh của Lê Tùng L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 của BLHS. Căn cứ nhân thân và khối lượng chất ma túy bị cáo đã bán cho Đặng Văn Đ thấy, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố bị cáo tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt hiện nay nạn ma túy đang ngày càng gia tăng, tác hại của ma túy đối với con người và xã hội là rất lớn. Ma túy không chỉ gây ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân cách của con người, cản trở sự phát triển của đất nước, ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được tác hại của ma túy và sự cấm đoán của pháp luật đối với các hành vi liên quan đến ma túy. Song do không chịu rèn luyện bị cáo vẫn lao vào con đường sử dụng ma túy, để có ma túy sử dụng đáp ứng nhu cầu ích kỷ của mình, bị cáo đã cố ý bán trái phép ma túy cho Đặng Văn Đ qua đó gieo giắc cái chết trắng cho xã hội. Vì vậy với bị cáo thấy, cần phải có một mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.

3. Tuy nhiên khi lượng hình thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa thái độ khai báo của bị cáo là thành khẩn, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù, xét động cơ phạm tội của bị cáo mang tính vụ lợi, với bị cáo lẽ ra cần phải áp dụng thêm hình phạt bổ sung là “Phạt tiền” theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS. Song xét khối lượng chất ma túy bị cáo bán không lớn, lợi nhuận thu được không đáng kể, bản thân bị cáo không có tài sản, bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định nên miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

4. Về xử lý vật chứng:

- Chất tinh thể màu trắng thu được khi bắt giữ các đối tượng qua giám định kết luận là Methamphetamine, đây là chất ma túy Nhà nước nghiêm cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, sử dụng nên cần phải tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định.

- Đối với tờ tiền Polime mệnh giá 200.000đ thu tại tay của bị cáo, quá trình điều tra chứng minh là tiền bị cáo bán trái phép chất ma túy cho Đ mà có. Xét đây là tiền thu lợi bất chính và là tiền thật nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

5. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

6. Liên quan trong vụ án này còn có:

- Đối với hành vi tàng trữ trái phép 0,0667gam Methamphetamine của Đặng Văn Đ thấy: Đ mua ma túy để sử dụng, không nhằm mục đích buôn bán hay sản xuất, bản thân Đ chưa bị kết án hay bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi có liên quan đến ma túy. Xét khối lượng chất ma túy Đ tàng trữ chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự với Đ là phù hợp, song hành vi của Đ là vi phạm pháp luật nên cần xem xét xử lý Đ bằng biện pháp hành chính. Tuy nhiên hiện nay Đ không có mặt tại địa phương do vậy khi nào Đ trở về cơ quan có thẩm quyền sẽ xử lý Đ theo quy định của pháp luật.

- Đối với người đàn ông bán ma túy cho L tại khu Y Na, phường Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh, L khai không biết người này là ai, ở đâu, với người đàn ông này Cơ quan điều tra vẫn tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

- Đối với hành vi sử dụng chất ma túy của bị cáo, theo bị cáo khai: Sau khi mua được ma túy bị cáo có lấy một phần ra sử dụng. Tuy nhiên quá trình điều tra cơ quan điều tra không chứng minh được một cách đầy đủ bị cáo sử dụng ma túy ở đâu vào thời gian nào nên không đề cập xử lý hành chính bị cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Tùng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luạt hình sự, Điều 106, 299, 326, 329, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

- Xử phạt: Lê Tùng L 26 (hai sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 29/7/2021, miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

- Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định, theo Kết luận giám định số 538/KLGĐMT- PC09 ngày 31/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 200.000đ là tiền do phạm tội mà có.

- Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 04/2021/HS-ST

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về