Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 228/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 228/2024/HS-PT NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 629/2023/TLPT-HS ngày 23 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thanh B, Trịnh Mỹ L do có kháng cáo của người bị hại Nguyễn Thị Thanh H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

- Bị cáo không kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Họ và tên: NGUYỄN THANH B, sinh năm 1975; tại thị xã G, tỉnh B;

Nơi cư trú: Số A, khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh B; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (chết) và bà Đỗ Thị T (chết); bị cáo có vợ tên Trịnh Mỹ L, sinh năm 1977 (là bị cáo trong vụ án) và 02 người con (lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/5/2022 đến nay, (có mặt).

2. Họ và tên: TRỊNH MỸ L, sinh năm 1977; tại thành phố B, tỉnh B; Nơi cư trú: Số A, khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh B; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:

Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn B2, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị Mỹ L1, sinh năm 1963; bị cáo có chồng tên Nguyễn Thanh B, sinh năm 1975 (là bị cáo trong vụ án) và 02 người con (lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2015) Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị cáo tại ngoại, (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh B theo chỉ định: Ông Nguyễn Sơn H1 là Luật sư Công ty L5 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H, (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Trịnh Mỹ L theo chỉ định: Ông Ngô Châu T1 là Luật sư Công ty L6 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H, (có mặt).

- Bị hại có kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1975; Địa chỉ: Tổ G, ấp H, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Bích L2, sinh 1972; Cư trú tại: Số C Lô C D Hồ V, Phường I, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

- Ngoài ra, trong vụ án này còn có bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh B và Trịnh Mỹ L là vợ chồng (có đăng ký kết hôn). Khoảng năm 2017, do thiếu nợ nhiều người và đến hạn trả nên B nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của người khác để trả nợ. Do đó, Nguyễn Thanh B gặp ông Lư Văn N, trú tại: ấp A, xã V, huyện H, tỉnh B nhờ giúp tìm người mua đất, B sẽ cho tiền hoa hồng, ông N đồng ý.

Ngày 25/5/2017, chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1975, trú tại: tổ G, ấp H, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương đến thành phố B, tỉnh B tham quan du lịch thì gặp được ông N. Biết chị H có nhu cầu mua đất tại B, ông N giới thiệu cho chị H gặp B để cả hai thỏa thuận việc mua bán đất.

Khoảng 08 giờ, ngày 26/5/2017, chị H cùng một số người khác đến nhà vợ chồng Nguyễn Thanh B, Trịnh Mỹ L thuộc khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh B. Tại đây, B dẫn chị H đi xem đất và nói dối với chị H toàn bộ khu đất của B có diện tích trên 3000m2; Trong đó, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 2800m2, còn lại phần đất có nhà ở trên 200m2 thì chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời, B cung cấp bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nội dung thửa đất số 463 tờ bản đồ số 07, số vào sổ H00687, địa chỉ thửa đất: khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh B, diện tích thửa đất 2800m2 trong đó: đất ở 500m2, đất trồng cây lâu năm 2300m2 và B nói bán toàn bộ diện tích đất với giá 06 tỷ đồng. Tin là thật, chị H đồng ý mua nhưng chỉ mua với giá 05 tỷ đồng và B đồng ý bán. B yêu cầu chị H đặt cọc 02 tỷ đồng, trong vòng 40 ngày, B sẽ làm thủ tục nhập 02 thửa đất lại rồi thực hiện việc chuyển nhượng cho chị H, chị H đồng ý.

Sau khi đạt được thỏa thuận, chị H nhờ anh Đỗ Huy L3 (là người đi cùng) soạn văn bản thỏa thuận đặt cọc bán diện tích đất nêu trên giữa chị H và vợ chồng B, L với giá 05 tỷ đồng, đặt cọc 02 tỷ đồng. Nội dung văn bản thỏa thuận được chị H và vợ chồng B thống nhất cùng ký tên trước sự chứng kiến của nhiều người. Ngày 29/5/2017, chị H chuyển 02 tỷ đồng vào số tài khoản của B tại Ngân hàng Đ1 chi nhánh B3. Số tiền này, B sử dụng trả nợ và tiêu xài hết.

Đến đầu năm 2018, chị H yêu cầu B thực hiện theo thỏa thuận nếu không sẽ thưa ra pháp luật nên B đặt làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả chuyển nhượng cho chị H để lấy thêm tiền. Từ ý định này, B gặp Nguyễn Vĩnh T2, sinh năm 1988, trú tại: số B, đường số B, Khu dân cư T thuộc Khóm C, Phường E, thành phố B, tỉnh B nhờ làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả chuyển nhượng cho người khác lấy tiền trả nợ thì được T2 cho số điện thoại của người làm giả tại Thành phố Hồ Chí Minh để B tự liên hệ. Sau khi liên hệ được người làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, B cung cấp thông tin, sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân của vợ chồng B để làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo yêu cầu của B. Sau khi có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BI 264279, số vào sổ cấp GCN: CH00290 do ông Huỳnh Chí N1, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B ký ngày 21/10/2016. Tên người sử dụng đất: ông Nguyễn Thanh B sinh năm 1975, CMND số:

385318144 và bà Trịnh Mỹ L sinh năm 1977, CMND số: 385898290 cùng trú tại: Nhà M, phường N, thành phố B, tỉnh B, thửa đất số 1468, tờ bản đồ số 7, địa chỉ thửa đất: khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh B, diện tích:

2.800m2. Mục đích sử dụng: Đất ở: 800m2 và đất trồng cây lâu năm: 2.000m2 (viết tắt Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI 264279), B nhờ T2 nhận rồi giao lại cho B.

Khoảng tháng 02/2019, do cần tiền trả nợ, B đến gặp chị Lý Kim Q sinh năm 1988, trú tại: Khóm C, Phường G, thành phố B, tỉnh B hỏi mượn 300.000.000đ và hứa trong 01 tháng sẽ trả lại. Do số tiền lớn, chị Q yêu cầu B phải có tài sản bảo đảm nên B cung cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BI 264279 và đưa chị Q đến nhà B xem vị trí thửa đất. Tin là thật, chị Q đồng ý cho B mượn 300.000.000đ và yêu cầu vợ chồng B đến Văn phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng.

Ngày 27/02/2019, chị Q cùng B và L đến Văn phòng C, địa chỉ: số B, đường H, Khóm F, Phường G, thành phố B, tỉnh B. Tại đây, cả ba người cung cấp các giấy tờ có liên quan cho Công chứng viên Trần Văn N2 lập hợp đồng và cả ba người cùng ký tên vào Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất số: 000520. Sau khi ký xong hợp đồng, B giao cho chị Q Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI 264279, còn chị Q đưa cho B số tiền 300.000.000đ. Số tiền này, B dùng để trả nợ.

Cũng trong thời gian này, chị H nhiều lần điện thoại cho B yêu cầu thực hiện theo nội dung đã thỏa thuận nên B hẹn chị H vào ngày 03/4/2019 đến Văn phòng Công chứng Trần Văn N2 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đồng thời, B cũng hẹn chị Q cùng ngày đến Văn phòng Công chứng Trần Văn N2 để trả tiền và lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Khoảng 09 giờ ngày 03/4/2019, chị H cùng một số người khác đến Văn phòng Công chứng Trần Văn N2 gặp vợ chồng B. Tại đây, B yêu cầu chị H đưa tiền để lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 759561, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H00687 do ông Dương Ngọc L4, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B ký ngày 22/5/2008, tên người sử dụng đất Nguyễn Thanh B sinh năm 1975, CMND số: 385318144, thửa đất số 463, tờ bản đồ số 07, địa chỉ thửa đất: khóm N, phường N, thị xã B, tỉnh B, diện tích 203,4m2, mục đích sử dụng đất: Đất ở tại đô thị (viết tắt Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 759561) đang thế chấp tại Ngân hàng nên chị H chuyển 322.000.000đ vào tài khoản của B mở tại Ngân hàng N4 chi nhánh B3 rồi nhờ anh Lê Sơn T3 (là người đi cùng) cùng đi với B đến Ngân hàng trả tiền, lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Sau khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, B quay lại Văn phòng Công chứng Trần Văn N2. Tại đây, B yêu cầu chị H đưa thêm tiền nên chị H đưa cho B 600.000.000đ, B trả cho chị Q 300.000.000đ rồi cùng với vợ mình là Trịnh Mỹ L ký Hợp đồng hủy bỏ Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất số 000935 với chị Lý Kim Q để nhận lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI 264279. Ngay sau đó, B cùng vợ là Trịnh Mỹ L tiếp tục ký Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất cho chị H với tổng diện tích 3.003,4m2, trị giá 05 tỷ đồng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BI 264279 (diện tích 2.800m2) và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 759561 (diện tích 203,4m2) như thỏa thuận, được Công chứng viên Trần Văn N2 thuộc Văn phòng C chứng nhận ngày 03/4/2019, số công chứng: 000936, quyển số: 01-TP/CC-SCC/HĐGD. Sau khi ký xong hợp đồng, chị H đưa cho B số tiền còn lại đủ 05 tỷ đồng như hợp đồng đã ký, còn B viết biên nhận đã nhận đủ 05 tỷ đồng. Ngoài ra, vợ chồng B còn cùng nhau ký Giấy ủy quyền cho chị H nộp thay thuế thu nhập cá nhân, ký Biên bản bàn giao tài sản là 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho chị H.

Đồng thời, để chị H không phát hiện hành vi gian dối của mình, vợ chồng B đã thỏa thuận với chị H thuê lại căn nhà nằm trong thửa đất số 1468, tờ bản đồ số 7 mỗi tháng 1.000.000đ, thời hạn thuê 03 tháng, từ ngày 03/4/2019 đến ngày 30/6/2019 và tự nguyện giao lại cho chị H 800.000.000đ để bảo đảm cho việc giao nhà đúng hạn theo hợp đồng, nếu hết hạn hợp đồng 03 tháng, vợ chồng B không giao nhà cho chị H sẽ phải chịu mất toàn bộ số tiền đã giao cho chị H.

Trong ngày 03/4/2019, chị H đến Trung tâm hành chính công thành phố B thực hiện thủ tục đăng ký biến động nhưng được thông báo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI 264279 có dấu hiệu làm giả. Ngay sau đó, chị H liên hệ gặp B yêu cầu trả lại tiền thì B nói đã trả nợ, chỉ còn 400.000.000đ nên trả lại cho chị H. Đồng thời, B viết tờ tường trình cam kết các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển nhượng cho chị H có nguồn gốc hợp pháp của B; nếu cơ quan Nhà nước xác định là giả, B sẽ bồi thường cho chị H gấp đôi số tiền đã nhận.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Nguyễn Thanh B bỏ trốn nên bị truy nã. Trong thời gian bỏ trốn, B lấy tên Nguyễn Quốc N3, sinh ngày 01/01/1985, nơi ĐKHK thường trú: thửa 52 - TBD E118-II, Tổ S, Phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng để sử dụng, đi làm giấy chứng minh nhân dân số: 251319831 và sử dụng giấy chứng minh nhân dân này thi giấy phép lái xe hạng A1, mở tài khoản tại Ngân hàng TMCP Q1 chi nhánh C1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 11/5/2022, Nguyễn Thanh B bị bắt truy nã tại thị trấn S, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Qua kiểm tra đã thu của B 01 Giấy chứng minh nhân dân số 251319831 tên Nguyễn Quốc N3, sinh ngày 01/01/1985, nơi ĐKHKTT: thửa 52 - TBD E118-II, Tổ S, Phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng do Công an tỉnh L cấp ngày 05/7/2019 và nhiều đồ vật, tài liệu khác.

Tại Kết luận giám định số: 60A/GD-2019, ngày 30/5/2019 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận:

- 01 (một) phôi “GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”, số: AM 759561, đề ngày 22/5/2008 (ký hiệu A1), là phôi giấy thật.

- 01 (một) phôi “GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT”, số: BI 264279, đề ngày 21/10/2016 (ký hiệu A2), là phôi giấy giả. Làm giả bằng phương pháp in phun màu.

Tại Kết luận giám định số: 60B/GD-2019, ngày 04/6/2019 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận:

- Hình dấu tròn có nội dung “U.B.N.D THỊ XÃ BẠC LIÊU - TỈNH BẠC LIÊU” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1 với hình dấu tròn của UBND thị xã B trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 đến M5 do cùng một con dấu đóng ra.

- Hình dấu tròn có nội dung “UỶ BAN NHÂN DÂN TP. BẠC LIÊU T. BẠC LIÊU” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A2 với hình dấu tròn của UBND thành phố B trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M6, M7, M8 không phải do cùng một con dấu đóng ra. Hình dấu được tạo ra bằng phương pháp in typô (hình dấu đóng).

- Chữ ký mang tên Dương Ngọc L4 trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1 với chữ ký của Dương Ngọc L4 trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 đến M5 do cùng một người ký ra.

- Chữ ký mang tên Huỳnh Chí N1 trên tài liệu cần giám định ký hiệu A2 với chữ ký của Huỳnh Chí N1 trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M6, M7, M8 không do cùng một người ký ra. Chữ ký được ký trực tiếp.

Tại Kết luận giám định số: 34/GD-2020, ngày 10/3/2020 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận:

- Chữ ký mang tên Trịnh Mỹ L trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1 (Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất, đề ngày 03/4/2019), A2 (Giấy ủy quyền của Nguyễn Thanh B và vợ Trịnh Mỹ L, đề ngày 03/4/2019) và A3 (Biên bản bàn giao tài sản ngày 03/4/2019, bên chuyển nhượng: Nguyễn Thanh B và vợ Trịnh Mỹ L, bên nhân chuyển nhượng: Nguyễn Thị Thanh H) với chữ ký Trịnh Mỹ L trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M (Tờ cam kết của Trịnh Mỹ L, đề ngày 27/8/2019) do cùng một người ký ra.

Tại Kết luận giám định số: 64a/KL-KTHS, ngày 12/8/2022 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận:

- Phôi “CHỨNG MINH NHÂN DÂN”, số: 251319831, mang tên Nguyễn Quốc N3, sinh ngày 01/01/1985, tài liệu cần giám định ký hiệu A1 là phôi thật.

- Phôi “GIẤY PHÉP LÁI XE/DRIVER’S LICENSE”, S: 790215040219, mang tên Nguyễn Quốc N3, sinh ngày 01/01/1985, tài liệu cần giám định ký hiệu A2 là phôi thật.

- Phôi “GIẤY PHÉP LÁI XE/DRIVER’S LICENSE”, S: 680191130042, mang tên Nguyễn Quốc N3, sinh ngày 16/6/1972, tài liệu cần giám định ký hiệu A3 là phôi giả, được làm giả bằng phương pháp in lưới.

- Hình dấu tròn màu đỏ trên giấy “CHỨNG MINH NHÂN DÂN”, tài liệu cần giám định ký hiệu A1 so với hình dấu tròn màu đỏ trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 là do cùng một con dấu đóng ra.

- Hình dấu chữ ký mang tên Vũ Nhân K trên giấy “CHỨNG MINH NHÂN DÂN”, tài liệu cần giám định ký hiệu A1 so với hình dấu chữ ký đứng tên Vũ Nhân K trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 là do cùng một con dấu đóng ra.

Tại Kết luận giám định số: 64b/KL-KTHS, ngày 11/8/2022 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận:

- Dấu vân tay in dưới mục “NGÓN TRỎ TRÁI” trên “CHỨNG MINH NHÂN DÂN”, số: 251319831, mang tên Nguyễn Quốc N3, sinh ngày 01/01/1985; Nguyên quán: B; Nơi ĐKHK thường trú: thửa 52 - TBD E118-II, Tổ S, Phường A, thành phố Đ, đề ngày 05/07/2019 trên tài liệu cần giám định ký hiệu A với dấu vân tay in dưới mục “Dấu vân tay ngón trỏ trái” trên Biên bản V/v Thu mẫu phục vụ công tác giám định của bị can Nguyễn Thanh B, sinh năm 1975, nơi cư trú: số A, khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh B đề ngày 21/6/2022 (ký hiệu M), là do cùng một người in ra.

- Dấu vân tay in dưới mục “NGÓN TRỎ PHẢI” trên “CHỨNG MINH NHÂN DÂN”, số: 251319831, mang tên Nguyễn Quốc N3, sinh ngày 01/01/1985, nơi ĐKHK thường trú: thửa 52 - TBD E118-II, Tổ S, Phường A, thành phố Đ, đề ngày 05/07/2019 trên tài liệu cần giám định ký hiệu A với dấu vân tay in dưới mục “Dấu vân tay ngón trỏ phải” trên Biên bản V/v Thu mẫu phục vụ công tác giám định của bị can Nguyễn Thanh B, sinh năm 1975, nơi cư trú: số A, khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh B đề ngày 21/6/2022 (ký hiệu M), là do cùng một người in ra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 13/7/2023 Tòa án nhân dân tỉnh B đã xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh B và bị cáo Trịnh Mỹ L, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan”.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B mức án 08 (tám) năm tù.

3. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B mức án 03 (ba) năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự; Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Thanh B phải chấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm tù

4. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Khoản 2 Điều 54; Điều 17 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trịnh Mỹ L mức án 05 (năm) năm tù.

5. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54; Điều 17 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trịnh Mỹ L mức án 02 (hai) năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự; Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Trịnh Mỹ L phải chấp hành hình phạt chung là 07 (bảy) năm tù.

6. Về trách nhiệm dân sự, áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh B và bị cáo Trịnh Mỹ L có nghĩa vụ phải liên đới bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Thanh H số tiền 2.550.000.000 đồng; Trong đó, mỗi bị cáo có nghĩa vụ phải trả cho bị hại H số tiền là 1.275.000.000 đồng.

Bị hại Nguyễn Thị Thanh H được nhận số tiền 1.250.000.000 đồng do gia đình bị cáo nộp khắc phục tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh B theo các biên lai thu số 0000230 ngày 22/3/2023 và 0000223 ngày 06/3/2023.

Ngoài ra, bản án còn tuyên lãi suất chậm thi hành án, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 01/8/2023, người bị hại Nguyễn Thị Thanh H kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm tăng mức hình phạt tù với các bị cáo, yêu cầu công nhận hiệu lực của một phần hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa 463 diện tích 203,4m2, buộc các bị cáo giao trả thửa đất này, buộc hai bị cáo liên đới trả số tiền còn lại là 2.198.460.000đ và trả lãi suất của số tiền chậm trả 2.198.460.000đ tính từ ngày bị cáo nhận tiền cho đến ngày khắc phục xong.

Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị hại H trình bày: do các bị cáo dùng thủ đoạn gian dối làm giấy đất giả coi thường pháp luật, chiếm đoạt số tiền lớn đến nay chưa khắc phục xong hậu quả, lại phạm nhiều tội, bị hại bức xúc nên kháng cáo, xét thấy vợ chồng bị cáo B và gia đình có thiện chí khắc phục hậu quả nên Người bị hại rút kháng cáo đối với các yêu cầu tăng hình phạt, yêu cầu công nhận hiệu lực của một phần hợp đồng thửa đất 463 diện tích 203,4m2. Chỉ yêu cầu vợ chồng bị cáo trả lãi đối với số tiền chiếm đoạt 2.550.000.000 đồng chưa trả tương đương tiền lãi từ khi nhận đến nay là 143.922.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo B và bị cáo L trình bày: Đồng ý theo án sơ thẩm đã xử, không có kháng cáo, do hiện nay hoàn cảnh khó khăn chưa trả hết cho bị hại, sẽ vận động gia đình bồi thường thêm. Tại phiên tòa bà L2 đại diện cho bị hại H yêu cầu tiền lãi chậm trả 143.922.000 đồng vợ chồng bị cáo đồng ý bồi thường.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm:

Án sơ thẩm xét xử bị cáo B và L về 2 tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật. Với mức hình phạt chung bị cáo B 11 năm tù, L 7 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa người bị hại rút kháng cáo đối với phần hình phạt, một phần dân sự là tự nguyện, phần lãi suất các bên tự nguyện thỏa thuận, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và giải quyết theo quy định của pháp luật.

Các Luật sư bào chữa cho các bị cáo trình bày: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của người bị hại Nguyễn Thị Thanh H được thực hiện trong hạn luật định nên được chấp nhận và xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Thanh B và Trịnh Mỹ L khai nhận toàn bộ hành vi, sự việc phạm tội như bản cáo trạng, bản án sơ thẩm nêu. Cụ thể: ngày 26/5/2017, bị cáo B cung cấp bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 463 tờ bản đồ số 07, diện tích 2800m2 để thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị hại Nguyễn Thị Thanh H. Nhưng thực tế, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (phô tô) trên được bị cáo Bình phôtô, sửa số diện tích của thửa số 463 có diện tích thật chỉ 203,4m2 thành diện tích 2800m2, sau đó hai bên đã ký “Thỏa thuận đặt cọc về việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất” với số tiền là 5.000.000.000 đồng. Ngày 29/5/2017, bị hại H chuyển tiền đặt cọc cho bị cáo B với số tiền 2.000.000.000 đồng. Ngày 03/4/2019, tại Văn phòng C, bị cáo Nguyễn Thanh B và bị cáo Trịnh Mỹ L đã dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BI 264279, thửa đất số 1468, tờ bản đồ số 7, địa chỉ thửa đất: khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh B, diện tích: 2.800m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật số AM 759561, thửa đất số 463, tờ bản đồ số 07, diện tích 203,4m2 ký “Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất” tại các thửa số 463 và 1468 tờ bản đồ số 7 cho bị hại Nguyễn Thị Thanh H và nhận của bị hại H số tiền 3.000.000.000 đồng. Ngoài ra, ngày 27/02/2019, tại Văn phòng Công chứng Trần Văn N2, bị cáo Nguyễn Thanh B và bị cáo Trịnh Mỹ L đã dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BI 264279, thửa đất số 1468, tờ bản đồ số 7 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị hại Lý Kim Q và nhận của bị hại Lý Kim Q số tiền 300.000.000 đồng.

[2.2] Hành vi của các bị cáo Nguyễn Thanh B và Trịnh Mỹ L là rất nguy hiểm cho xã hội, đã dùng các thủ đoạn gian dối như sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phô tô sửa diện tích đất lớn hơn diện tích đất của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật, sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để ký hợp đồng đặt cọc, ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các bị hại để chiếm đoạt tổng số tiền 4.948.460.000đồng trong đó chiếm đoạt của bị hại Nguyễn Thị Thanh H số tiền 4.648.460.000đ và chiếm đoạt của bị hại Lý Kim Q số tiền 300.000.000đ, hành vi của các bị cáo B và L đã xâm phạm trực tiếp đến quyền quyền sở hữu hợp pháp và gây bất bình trong xã hội, đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên” được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan” với tình tiết định khung tăng nặng sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đạt biệt nghiêm trọng tại điểm b khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên cấp sơ thẩm truy tố, xét xử các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2.3] Xét kháng cáo của người bị hại Nguyễn Thị Thanh H nhận thấy: [2.3.1] Về kháng cáo yêu cầu tăng mức hình phạt đối với bị cáo B và L, nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm quyết định hình phạt đối với các bị cáo đã xem xét cân nhắc về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự và các tình tiết giảm nhẹ đó là các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường khắc phục được một phần lớn hơn ½ hậu quả thiệt hại số tiền 2.750.000.000đ/5.300.000.000đ, được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 và áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, với bị cáo L với vai trò đồng phạm giúp sức không đáng kể để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để quyết định mức hình phạt bị cáo B 08 năm tù và L 05 năm tù nề tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; B 03 năm tù và L 02 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan”, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là B 11 năm tù và L 07 năm tù. Việc áp dụng các điểm, khoản của các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và quyết định hình phạt lưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa trong phần tranh luận, đại diện theo ủy quyền của bị hại Nguyễn Thị Thanh H tự nguyện rút yêu cầu kháng cáo tăng hình phạt tù đối với hai bị cáo B và L, xét việc rút kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 348, điểm đ khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu này của người bị hại.

[2.3.2] Xét kháng cáo của người bị hại về phần trách nhiệm dân sự:

- Đối với yêu cầu kháng cáo không đồng ý việc tuyên vô hiệu toàn bộ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bị cáo Nguyễn Thanh B và Trịnh Mỹ L với Nguyễn Thị Thanh H, chỉ vô hiệu một phần hợp đồng đối với thửa 1468 diện tích 2800m2, công nhận hiệu lực đối với thửa 463 diện tích 203,4m2 và giao thửa đất này cho bị hại. Tại phiên tòa trong phần tranh luận, đại diện theo ủy quyền của bị hại Nguyễn Thị Thanh H tự nguyện rút yêu cầu kháng cáo do phần đất đã được Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B xử lý vật chứng cho gia đình bị cáo chuyển nhượng nộp tiền thi hành án phần bồi thường, xét việc rút kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 348, điểm đ khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu này của người bị hại.

- Đối với yêu cầu bị cáo B, L liên đới trả lãi suất theo lãi suất ngân hàng của số tiền chưa bồi thường số tiền 2.550.000.000đ từ ngày bị cáo B nhận tiền cho đến nay theo lãi suất ngân hàng tổng cộng: 143.922.000đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo B, bị cáo L tự nguyện chấp nhận bồi thường, xét thấy giữa người đại diện theo ủy quyền của bị hại Nguyễn Thị Thanh H với bị cáo B và L sự thỏa thuận bồi thường thêm phần lãi suất là hoàn toàn tự nguyện nên ghi nhận, chấp nhận một phần kháng cáo của người bị hại sửa một phần bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận và buộc bị cáo B và L có trách nhiệm liên đối bồi thường phần lãi suất chậm trả là:

143.922.000đồng cho bị hại Nguyễn Thị Thanh H.

[3] Ý kiến của người bào chữa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng cáo của người bị hại và ghi nhận sự thỏa thuận nêu trên phù hợp với nhận định trên nên được chấp nhận.

[4] Các nội dung khác trong quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bị cáo, người bị hại không phải chịu án phí hình sự, dân sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 2 Điều 348; điểm b, đ khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận việc rút một phần kháng cáo, chấp nhận một phần kháng cáo còn lại của người bị hại Nguyễn Thị Thanh H, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B (ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường thêm phần lãi suất), cụ thể tuyên:

1.1 Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với một phần kháng cáo của người bị hại: yêu cầu tăng hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Thanh B và Trịnh Mỹ L; yêu cầu công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/4/2019 đối với thửa 463 diện tích 203,4m2.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh B và bị cáo Trịnh Mỹ L, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan”.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B mức án 08 (tám) năm tù.

3. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B mức án 03 (ba) năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự; Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Thanh B phải chấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm tù.

Tiếp tục tạm giam bị cáo theo quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo việc thi hành án.

4. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Khoản 2 Điều 54; Điều 17 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trịnh Mỹ L mức án 05 (năm) năm tù.

5. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54; Điều 17 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trịnh Mỹ L mức án 02 (hai) năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự; Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Trịnh Mỹ L phải chấp hành hình phạt chung là 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

1.2 Về trách nhiệm dân sự, áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự:

- Buộc bị cáo Nguyễn Thanh B và bị cáo Trịnh Mỹ L có nghĩa vụ phải liên đới bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Thanh H số tiền 2.550.000.000 đồng (Hai tỷ năm trăm năm mươi triệu đồng); Trong đó, mỗi bị cáo có nghĩa vụ phải trả cho bị hại H số tiền là 1.275.000.000 đồng.

- Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận và buộc bị cáo Nguyễn Thanh B và Trịnh Mỹ L có trách nhiệm liên đối bồi thường phần lãi suất chậm trả là:

143.922.000đồng (Một trăm bốn mươi ba triệu chín trăm hai mươi hai ngàn đồng) cho bị hại Nguyễn Thị Thanh H.

- Bị hại Nguyễn Thị Thanh H được nhận số tiền 1.250.000.000 đồng (Một tỷ hai trăm năm mươi triệu đồng) do gia đình bị cáo nộp khắc phục tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh B theo các biên lai thu số 0000230 ngày 22/3/2023 và 0000223 ngày 06/3/2023.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

1.3 Áp dụng Điều 117, 127, 131 Bộ luật Dân sự năm 2015:

Tuyên bố vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/4/2019 giữa bị cáo Nguyễn Thanh B, Trịnh Mỹ L với bà Nguyễn Thị Thanh H.

2. Các nội dung khác trong quyết định Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bị cáo, người bị hại không phải nộp án phí hình sự, dân sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 228/2024/HS-PT

Số hiệu:228/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về