Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 52/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 04/04/2022 VỀ TỘI LA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 

Ngày 04 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/HSST-QĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Hoàng T, sinh năm 1998 tại Đồng Nai; nơi cư trú: ấp 3, xã L, Huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: lái xe (làm thuê); trình độ văn hóa (học vấn): lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Phước T và bà Trương Thị Hồng H; tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 07/01/2021 đến nay.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Hoàng T: ông Nguyễn Bảo P là Luật sư của Công ty TNHH L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương.

- Bị hại:

1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải và Du lịch N; địa chỉ: thửa đất  337, tờ bản đồ số 33, khu phố K, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương  Người đại diện theo pháp luật: ông Lê Minh H, sinh năm 1989; nơi cư trú: số 77, phường Bình Chiểu, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; có yêu cầu vắng mặt.

2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T; địa chỉ: số 254/1, tổ  3, ấp T, xã T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai,  Người đại diện theo pháp luật: bà Võ Thị Hồng Vân, sinh năm 1976; nơi cư trú: 254/1, tổ 3, ấp T, xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có yêu cầu vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Văn M, năm 1978; nơi cư trú: ấp 1, xã X, huyện C, tỉnh  Đồng Nai; có yêu cầu vắng mặt.

2. Ông Đinh Duy P, sinh năm 1984; nơi cư trú: khu phố L, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có yêu cầu vắng mặt.

3. Ông Lê Minh T, sinh năm 1978; nơi cư trú: số 1A25, đường Trần Văn  G, ấp 1, xã P, Huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, có yêu cầu vắng mặt.

4. Ông Trịnh Minh P, sinh năm 1988; nơi cư trú: tổ 9, khu phố S, phường  T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; có mặt.

5. Ông Trần Thái Anh K, sinh năm 1983; nơi cư trú: phường P, thành phố  T, tỉnh Bình Dương; có yêu cầu vắng mặt.

6. Ông Phạm Ngọc S, sinh năm 1972; nơi cư trú: số 25/4, khu phố 4, phường H, thành phố T (Quận x cũ), Thành phố Hồ Chí Minh; có yêu cầu vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Lê Văn T, sinh năm 1977;

2. Ông D D, sinh năm 1991;

3. Ông Lương Trọng T, sinh năm 1994;

4. Bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1987;

5. Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1980;

6. Ông Võ Văn D, sinh năm 1987.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hoàng T do không có tiền tiêu xài cá nhân và tiền để nạp vào tài khoản game online nên T nảy sinh ý định tìm các cơ sở kinh doanh cho thuê xe nâng, dùng thủ đoạn gian dối hỏi thuê các loại xe nâng rồi đem bán lấy tiền tiêu xài. Trong thời gian từ ngày 10/12/2020 đến ngày 24/12/2020, T đã thuê 03 xe nâng của Công ty TNHH Vận tải và Du lịch N trên địa bàn thị xã T, tỉnh Bình Dương  và 02 xe nâng của Công ty TNHH T (trong đó có 01 xe của ông Nguyễn Văn M)  trên địa bàn thành phố T, tỉnh Bình Dương đem bán lấy tiền tiêu xài.

Hành vi Lê Hoàng T chiếm đoạt 03 xe nâng của Công ty TNHH vận tải và du lịch N như sau:

Vụ thứ nhất: khoảng 09 giờ ngày 19/12/2020, Lê Hoàng T liên hệ điện thoại với Lê Minh H là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Vận tải và Du lịch N (viết tắt là Công ty N; địa chỉ: tại khu phố K, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương) hỏi thuê 01 xe nâng loại 2,5 tấn, thời gian thuê là 07 ngày, H nói T giá thuê là 1.000.000 đồng/ngày, T đồng ý thuê. H điện thoại cho T liên hệ với Lê Văn T (T1) là nhân viên của Công ty N nhận xe. Sau đó, T liên hệ với T1 thì T1 hẹn gặp T tại cây xăng T thuộc khu phố T, phường T, thị xã T để giao xe. Khoảng 11 giờ cùng ngày, T1 điều khiển xe nâng nhãn hiệu Sumitomo FD25 loại 2,5 tấn đến cây xăng T giao xe cho T, giữa T1 và T không làm hợp đồng thuê xe bằng văn bản. Sau khi nhận xe, T điều khiển xe đến cây xăng (không rõ tên) trên đường M - T thuộc phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, T gỡ tem dán trên xe ghi chữ “Cơ sở xe nâng N, số điện thoại công ty”, đồng thời liên hệ với những người quen để bán xe. Khoảng 15 giờ ngày 20/12/2020, T được 01 người tên D (không rõ nhân thân, lai lịch) làm nghề mua bán gỗ giới thiệu Đinh Duy P là chủ xưởng gỗ palet thuộc khu phố L, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cần mua xe nâng. Khoảng 17 giờ cùng ngày, T thuê xe cẩu chở xe nâng đến xưởng gỗ của P để P xem xe, P hỏi T xe của ai, T nói xe của người quen nhờ T bán giúp, nếu P mua thì T bán giá 70.000.000 đồng. P tin tưởng và đồng ý mua xe, thỏa thuận với T giá bán xe là 68.000.000 đồng, T đồng ý, sau khi nhận tiền của P thì T đã sử dụng hết số tiền này.

Vụ thứ hai: khoảng 19 giờ ngày 20/12/2020, T điện thoại cho Lê Minh H hỏi thuê thêm 01 chiếc xe nâng loại 03 tấn, thời gian thuê là 10 ngày, H nói T giá thuê là 1.200.000 đồng/ngày, giao xe vào sáng ngày 21/12/2020 tại đường A  18, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, T đồng ý. Sáng ngày 21/12/2020,  D D là nhân viên của Công ty N điều khiển chiếc xe nâng hiệu Sumitomo FD30, màu xanh đen loại 3 tấn đến địa chỉ: số 314/2, khu phố 1B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương giao xe cho T. Sau khi nhận xe, T điều khiển xe đến cây xăng (không rõ tên) trên đường M - T rồi thoại cho Lê Minh T (T2) làm nghề sửa chữa, kinh doanh, mua bán xe nâng để bán xe. T chụp và quay video xe gửi qua điện thoại cho T2 xem, T nói T2 xe do T là chủ sở hữu, kẹt tiền cần bán gấp giá 140.000.000 đồng, T2 xem xe và nói mua với giá 110.000.000 đồng, T đồng ý bán. Sau khi thỏa thuận mua bán xe xong, T thuê xe cẩu chở xe nâng về cơ sở kinh doanh của T2 (tại địa chỉ: số 1A25, đường T, ấp 1, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh) và T2 chuyển khoản cho T số tiền 80.000.000 đồng, sáng ngày 22/12/2020, T2 tiếp tục chuyển khoản cho T số tiền 30.000.000 đồng. Số tiền nhận của T2, T đã chuyển khoản cho H 13.000.000 đồng để T toán tiền đặt cọc thuê chiếc xe nâng hiệu Sumitomo FD25 loại 2,5 tấn và chiếc xe nâng hiệu Sumitomo FD30, màu xanh đen loại 3 tấn, số tiền còn lại T đã sử dụng hết.

Vụ thứ ba: chiều ngày 24/12/2020, T tiếp tục điện thoại cho H nói “Có công ty pin năng lượng mặt trời ở Huyện N, tỉnh Đồng Nai cần thuê xe nâng loại  3,5 tấn đến 04 tấn, thời gian thuê 01 tháng, T hỏi H có xe nâng để cho thuê  không, H nói xe nâng thuê ngoài tỉnh Bình Dương cần biết thông tin công ty và địa chỉ cụ thể để trong thời gian thuê xe, H đến kiểm tra xe. T nói H đã làm việc với công ty nhiều lần nên nói H yên tâm, H đã đồng ý cho T thuê xe nâng loại 4 tấn, giá thuê 25.000.000 đồng/tháng, T hẹn H đem xe đến đường D17 khu dân cư V thuộc phường A, thành phố T để giao xe. Khoảng 19 giờ cùng ngày, H thuê Lương Trọng T là tài xế xe cẩu chở xe nâng hiệu Sumitomo FD40 loại 4 tấn màu xanh đen đến giao cho T, T nhận xe và gỡ tem dán trên xe ghi chữ “Cơ sở xe nâng N, số điện thoại công ty”. Sau đó, T liên hệ với Trịnh Minh P là chủ cơ sở kinh doanh sửa chữa Garage Minh P thuộc phường T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa  - Vũng Tàu làm hợp đồng cho P thuê chiếc xe này, sau 02 ngày T không đến chuộc xe thì P sẽ bán xe để cấn trừ tiền đặt cọc khi thuê xe.

Hành vi Lê Hoàng T chiếm đoạt 02 xe nâng của Công ty TNHH T như   sau:

Vụ thứ nhất: ngày 11/12/2020, T liên hệ với Võ Văn D là quản lý bãi xe   của Công ty TNHH T thuộc phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương để hỏi thuê xe nâng loại 3 tấn đến 4 tấn, D đồng ý cho T thuê xe nâng hiệu TCMFVD35Z5  màu  xanh  loại  3,5  tấn,  thời  gian  thuê  05  ngày,  giá  thuê  1.800.000 đồng/ngày. Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 11/12/2020, T đến bãi xe gặp  Lê Thanh C là nhân viên của công ty, D điện thoại cho C giao xe cho T, giữa C  và T không làm hợp đồng thuê xe bằng văn bản. T nhận xe và liên hệ với Phạm Ngọc S là Giám đốc Công ty TNHH TM DV KT T để bán chiếc xe nâng cho S, S hỏi nguồn gốc của xe thì T cam kết là xe của T, giấy tờ xe bị thất lạc, S yêu cầu T đem xe nâng đến bãi xe của S tại xã L, Huyện L, tỉnh Đồng Nai để xem xe, S đồng ý mua xe của T giá 80.000.000 đồng. Sau đó, S làm hợp đồng mua bán xe nâng với T; Sơn giao trước cho T 30.000.000 đồng, T lấy tiền và T toán cho D 7.000.000 đồng tiền đặt cọc. Ngày 14/12/2020, T đến bãi xe gặp S lấy số tiền 50.000.000 đồng còn lại, T đã sử dụng hết số tiền này.

Vụ thứ hai: ngày 23/12/2020, T tiếp tục nảy sinh ý định thuê xe nâng của  Công ty TNHH T đem bán lấy tiền, T điện thoại cho D là quản lý bãi xe hỏi thuê  01 xe nâng loại 2,5 tấn đến 3 tấn, D hỏi thời gian thuê và giá thuê, T nói thuê theo tháng, giá thuê là 25.000.000 đồng/tháng. D không có loại xe nâng 2,5 tấn đến 3 tấn nên D liên hệ với Nguyễn Văn M hỏi thuê M 01 xe nâng hàng hiệu  Mitsubishi KB30, giá thuê là 10.000.000 đồng/tháng, M đồng ý. Sau đó, M chở xe nâng đến bãi xe của D để giao xe. Khoảng 17 giờ ngày 24/12/2020, T đến bãi  xe Công ty T gặp D, D đã giao cho T chiếc xe nâng hiệu Mitsubishi KB30 màu xanh cho T. Sau khi nhận được xe, T đã liên hệ với Trịnh Minh P là chủ cơ sở kinh doanh sửa chữa Garage Minh P thuộc phường T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói P có 02 chiếc xe nâng muốn bán nhưng P không mua. T đề nghị P  cầm cố 02 chiếc xe nâng nhưng P không đồng ý vì P không có giấy phép kinh doanh dịch vụ cầm đồ. Lúc này, T nhờ P tìm khách hàng để bán giúp T 02 chiếc xe nâng, T sẽ cho P tiền công, P hỏi T nguồn gốc của 02 xe nâng mà T muốn  bán, T nói cả 02 xe là của T, do cần tiền để giải quyết công việc gia đình nên bán gấp, P đồng ý cho T đem 02 xe nâng đến Garage của P. Khoảng 17 giờ ngày  25/12/2020, T thuê xe cẩu chở 01 xe nâng hiệu Sumitomo FD40 loại 4 tấn màu  xanh đen mà T thuê của H ngày 24/12/2020 và 01 xe nâng hiệu Mitsubishi KB30 màu xanh mà T thuê của D đến Garage của P. Tại đây, P làm bản cam kết cho thuê xe nâng, nội dung bản cam kết là T cho P thuê 02 xe nâng, P đặt cọc trước cho T số tiền 150.000.000 đồng, sau 02 ngày T không đến nhận lại xe và trả tiền cọc cho P thì P sẽ dùng 02 xe này cấn trừ vào tiền đặt cọc. Sau khi ký bản cam kết, P chuyển khoản cho T 144.000.000 đồng và đưa trực tiếp cho T  6.000.000  đồng.  Sau  02  ngày,  P  không  thấy  T  đến  chuộc  xe  nên  ngày  30/12/2020, P liên hệ với Trần Thái Anh K để bán 02 xe nâng do T gửi, K hỏi P nguồn gốc 02 xe nâng, P nói xe của P nhưng là hàng T lý nên không có giấy tờ, K tin tưởng P và đồng ý mua chiếc xe nâng hiệu Sumitomo FD40 loại 4 tấn màu xanh đen và chiếc xe nâng hiệu Mitsubishi KB30 màu xanh với tổng số tiền  205.000.000 đồng. Sau khi bán xe cho K, P nói T đã bán 02 chiếc xe được  170.000.000 đồng, P đưa thêm cho T 20.000.000 đồng, T đã trả cho P tiền công bán xe là 3.000.000 đồng, số tiền còn lại T đã tiêu xài hết.

Ngày 18/01/2021, Huỳnh Văn H là nhân viên của Công ty TNHH T trên đường đi làm phát hiện chiếc xe hiệu TCMFVD35Z5 màu xanh loại 3,5 tấn của Công ty T tại công trường khu tái định cư L thuộc xã L, Huyện L, tỉnh Đồng Nai. Anh H trình báo Công an xã L, Huyện L, tỉnh Đồng Nai tạm giữ chiếc xe và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương giải quyết theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương lập biên bản tạm giữ 01 xe nâng nhãn hiệu Sumitomo loại FD25 2,5 tấn, màu xanh sọc đen của Đinh Duy Phong; 01 xe nâng hiệu Sumitomo FD30, màu xanh đen loại 3 tấn của Lê Minh T; 01 xe nâng hiệu Sumitomo FD40 loại 4 tấn màu xanh đen và 01 xe nâng hiệu Mitsubishi KB30 màu xanh của Trần Thái Anh K.

Bản Kết luận định giá tài sản ngày 12 tháng 01 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T, tỉnh Bình Dương xác định: 01 xe nâng nhãn hiệu Sumitomo loại FD25 2,5 tấn, màu xanh sọc đen, đã qua sử dụng, trị giá 118.800.000 đồng.

Bản Kết luận định giá tài sản ngày 01 tháng 7 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T, tỉnh Bình Dương xác định: 01 xe nâng  nhãn  hiệu  Sumitomo  loại  FD30  loại 3  tấn,  màu  xanh  đen,  số  khung D3H10124, số động cơ 13487, đã qua sử dụng, trị giá 165.000.000 đồng; 01 xe nâng nhãn hiệu Sumitomo loại FD40, loại 4 tấn, màu xanh đen, số khung D4H1085, số động cơ S6S0333964, đã qua sử dụng, trị giá 220.000.000 đồng.

Bản Kết luận định giá tài sản ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T, tỉnh Bình Dương xác định 01 xe nâng hàng, mã hiệu TCMFVD35Z5, nhà sản xuất TCM JAPAN, tải trọng  3.500kg, số động cơ D500-507639, trị giá 80.000.000 đồng; 01 xe nâng hàng  Mitsubishi, mã hiệu KB30, năm chế tạo 2016, nhà sản xuất Trung Quốc, tải  trọng 3.000kg, số chế tạo: B16006G02433, số động cơ: W234587D, trị giá  70.000.000 đồng.

Ngày 15/01/2021 và ngày 28/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Lê Minh H (Giám đốc Công ty TNHH Vận tải và Du lịch N) 01 xe nâng nhãn hiệu Sumitomo loại FD25 2,5 tấn, số máy: S162574, số khung D2J-01267; 01 chiếc xe nâng hiệu Sumitomo loại FD30 loại 3 tấn màu xanh đen, số khung D3H10124, số động cơ 13487; 01 xe nâng hiệu Sumitomo loại FD40 loại 4 tấn màu xanh đen, số khung D4H1085,  số động cơ S6S033964.

Ngày 23/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Công ty TNHH T 01 xe nâng hàng mã hiệu TCMFVD35Z5, số động cơ: D500-507639 màu xanh; Nguyễn Văn M 01 xe nâng hàng Mitsubishi mã hiệu KB30, số chế tạo B16006G02433, số động cơ W234587D màu xanh.

Trách nhiệm dân sự: ông Đinh Duy P yêu cầu Lê Hoàng T bồi thường số tiền 68.000.000 đồng, ông Lê Minh T yêu cầu Lê Hoàng T bồi thường số tiền  110.000.000 đồng, ông Phạm Ngọc S yêu cầu Lê Hoàng T bồi thường số tiền  80.000.000 đồng, ông Trịnh Minh P yêu cầu Lê Hoàng T bồi thường số tiền  167.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 18/CT-VKSBD.P1 ngày 18/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố Lê Hoàng T về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội trong đó có nội dung: giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Lê Hoàng T ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 4  Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Hoàng T từ 12 (mười hai) năm đến 14 (mười bốn) năm tù; buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo T trình bày lời bào chữa: hồ sơ vụ án đã xác định đúng hành vi phạm tội của bị cáo, tuy nhiên xét về hoàn cảnh gia đình thì bị cáo không có được sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, từ nhỏ phải bỏ học đi làm kiếm sống nên dễ bị sa vào con đường phạm tội. Ngoài ra, các bị hại quá dễ dàng khi giao tài sản cho bị cáo, không cần giấy tờ, hợp đồng, không kiểm tra, quản lý sau khi cho thuê dẫn đến tạo lòng tham cho bị cáo dễ dàng chiếm đoạt tài sản. Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bị cáo mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện Kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hoàng T khai nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã truy tố đối với bị cáo. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Bị cáo Lê Hoàng T dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin thuê xe là không đúng sự thật nhưng đã tạo niềm tin cho các bị hại tin tưởng để giao tài sản (xe nâng) cho bị cáo. Từ ngày 19 tháng 12 năm 2020 đến ngày 24 tháng 12 năm 2020, bị cáo Lê Hoàng T lừa đảo chiếm đoạt 03 xe nâng của Công ty TNHH Vận tải và Du lịch N và từ ngày 11 tháng 12 năm 2020 đến ngày 23 tháng 12 năm 2020, bị cáo Lê Hoàng T lừa đảo chiếm đoạt 02 xe nâng của Công ty TNHH T (trong đó có 01 xe của ông Nguyễn Văn M) cầm cố, bán lấy tiền tiêu xài. Tổng giá trị 05 xe nâng bị cáo chiến đoạt là 653.000.000 đồng. Hành vi trên của bị cáo T là phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Do đó, Cáo trạng của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình  Dương truy tố bị cáo T về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4  Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Tội phạm bị cáo thực hiện là đặc biệt nghiêm trọng, làm thiệt hại về việc kinh doanh của các bị hại; chiếm dụng tài sản (tiền) của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, gây ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần xét xử nghiêm để răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để có hình phạt tương xứng mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội từ hai lần trở lên là tình tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; tài sản đã thu hồi trả lại cho các bị hại là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về vật chứng:

Ngày 15/01/2021 và ngày 28/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Lê Minh H, Giám đốc Công ty TNHH Vận tải và Du lịch N 01 xe nâng nhãn hiệu Sumitomo loại FD25 2,5 tấn, số máy: S162574, số khung D2J-01267; 01 xe nâng hiệu Sumitomo loại FD30 loại 3 tấn màu xanh đen, số khung D3H10124, số động cơ 13487; 01 xe nâng hiệu Sumitomo loại FD40 loại 4 tấn màu xanh đen, số khung D4H1085, số động cơ S6S033964.

Ngày 23/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Công ty TNHH T 01 xe nâng hàng mã hiệu TCMFVD35Z5, số động cơ: D500-507639 màu xanh và trả lại cho ông Nguyễn Văn Minh 01 chiếc xe nâng hàng Mitsubishi mã hiệu KB30, số chế tạo B16006G02433, số động cơ W234587D màu xanh.

Các bị hại không còn yêu cầu gì khác nên Tòa án không xem xét. [7] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

Buộc bị cáo Lê Hoàng T bồi thường cho ông Đinh Duy P 68.000.000 đồng, ông Lê Minh T 110.000.000 đồng, ông Phạm Ngọc S 80.000.000 đồng, ông Trịnh Minh P 167.000.000 đồng.

[8] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phù hợp với nhận định Hội đồng xét xử nên có cơ sở chấp nhận.

[9] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Lê Hoàng T là có căn cứ một   phần.

[10] Về án phí hình sự, dân sự sơ thẩm: bị cáo Lê Hoàng T phải chịu theo   quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 298, 299, 326, 327, 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Hoàng T 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn  tù tính từ ngày 07/01/2021.

2. Biện pháp tư pháp (bồi thường thiệt hại): áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 584 của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Lê Hoàng T bồi thường cho các ông: Đinh Duy P 68.000.000  đồng (sáu mươi tám triệu đồng), Lê Minh T 110.000.000 đồng (một trăm mười  triệu đồng), Phạm Ngọc S 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng), Trịnh Minh  P 167.000.000 đồng (một trăm sáu mươi bảy triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357 và 468  Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30  Luật Thi hành án dân sự.

3. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ  Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Lê Hoàng T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 30.120.000 (ba mươi triệu một trăm hai mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về