Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 272/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 272/2022/HS-PT NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 07 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 225/2022/HSPT ngày 03/06/2022. Do có kháng cáo của bị cáo và của bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 29/2022/HS-ST ngày 29/04/2022 của Tòa án nhân dân Thành Phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo, và bị kháng cáo.

1. Họ và tên: Nguyễn Thị Ánh T; sinh ngày 21 tháng 12 năm 1966, tại tỉnh Quảng Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ hoc vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không (nguyên là nhân viên); Nơi ĐKNKTT: Đà Nẵng; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án số 398/2008/HSPT ngày 22/4/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội: “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”; Con ông: Nguyễn Xuân K (sinh năm 1930), con bà: Nguyễn Thị S (đã chết). Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Chồng: Nguyễn Đắc M (đã ly hôn). Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1997.

Bị cáo đầu thú và bị bắt tạm giam từ ngày 22/9/2020, hiện đang bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Thị Lệ H; sinh ngày 14 tháng 11 năm 1970, tại tỉnh V Phúc; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không (nguyên là nhân viên); Nơi ĐKNKTT: thành phố Đà Nẵng; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông: Nguyễn Tấn M (sinh năm 1934), con bà: Nguyễn Thị T (sinh năm 1943). Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất; có chồng Nguyễn Nam T (đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2002.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/10/2021, hiện đang bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa * Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ánh T: Ông Nguyễn Thành Đ, Luật sư thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Lệ H: Bà Trần Thị Thùy T, Luật sư thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

* Bị hại kháng cáo:

11. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1979; Trú tại: tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mặc dù không có khả năng xin việc, nhưng Nguyễn Thị Ánh T đã đưa ra thông tin gian dối là T có nhiều mối quan hệ xã hội, có khả năng xin việc làm tại các ngành như Công an, các vị trí công tác trong Sân bay Đà Nẵng, Sân bay P và Sân bay P, đã nhận tiền của nhiều người, sau đó chiếm đoạt, cụ thể như sau:

Vụ thứ 1: Khoảng năm 2014, chị Thái Thị H (sinh năm 1964, trú thành phố Đà Nẵng) gặp và được T giới thiệu có khả năng xin việc vào Sân bay Đà Nẵng nên chị H đã 2 lần đưa 900.000.000 đồng nhờ T xin việc cho con trai là Đặng Minh V (sinh năm 1990) vào làm tại Công ty dịch vụ mặt đất Sân bay Đà Nẵng, cụ thể:

- Vào ngày 16/11/2014, T nhận của chị H số tiền 350.000.000 đồng. Sau khi anh Đặng Minh V đi đào tạo nghiệp vụ hàng không tại thành phố Hồ Chí Minh về thì T nói chờ thêm một thời gian nữa sẽ vào làm việc.

- Vào ngày 06/02/2018, T điện thoại cho chị H nói dối Sân bay đang tuyển dụng bộ phận phòng cháy chữa cháy và đến nhà chị H nhận số tiền 550.000.000 đồng và hứa hẹn đưa anh V vào làm việc tại Sân bay vào tháng 3 hoặc tháng 4/2018.

Toàn bộ số tiền chiếm đoạt của chị H, T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 2: Ông Thân Đ G (sinh năm 1958, trú thành phố Đà Nẵng) làm việc tại Trung tâm an ninh thuộc sân bay Đà Nẵng nên quen biết với T. T nói dối có nhiều mối quan hệ xin được việc làm trong ngành Công an và hàng không, nên ông G tin tưởng đã 03 lần đưa 250.000.000 đồng nhờ T xin việc, cụ thể:

- Ngày 27/12/2016, T viết giấy nhận của ông G số tiền 140.000.000 đồng để xin cho 2 cháu Đặng Lê V (sinh năm 1992) và Trương Thị Thu H (sinh năm 1995) vào ngành Công an.

- Ngày 25/3/2018, T viết giấy nhận số tiền 50.000.000 đồng của ông G để xin việc cho con trai ông Nguyễn Văn L (sinh năm 1963, trú thành phố H, là bạn ông G) làm việc tại Sân bay P.

- Ngày 13/6/2018, ông G đưa thêm cho T số tiền 60.000.000 đồng để xin việc cho con trai ông L, T viết giấy mượn tiền hẹn thời hạn 10 ngày sẽ trả.

Toàn bộ số tiền chiếm đoạt của G, T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 3: Tháng 8/2017, ông Phạm Quang S (sinh năm 1963, trú thành phố Đà Nẵng) thỏa thuận với T xin cho con trai là Phạm Quang M (sinh năm 1992) vào làm An ninh Sân bay Đà Nẵng với giá 600.000.000 đồng. Ông S đưa trước cho T 100.000.000 đồng (T có viết giấy viết tay nhưng ông S đã làm thất lạc), sau khi nhận tiền T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 4: Thông qua anh Nguyễn Văn P (sinh năm 1972, trú tỉnh Quảng Bình), chị Trần Thị Thanh H (sinh năm 1961, trú tỉnh Quảng Bình) gặp T để nhờ xin việc cho con trai là Dương T H (sinh năm 1991) vào làm nhân viên An ninh Sân bay Đ, tỉnh Quảng Bình với giá thỏa thuận 600.000.000 đồng.

Khoảng tháng 8/2018 đến ngày 29/8/2018, chị H giao cho anh P số tiền 250.000.000 đồng để đưa cho T; ngày 02/6/2019, chị H trực tiếp vào Đà Nẵng gặp T và đưa thêm số tiền 100.000.000 đồng. Sau đó, T có viết giấy nhận tiền cho chị H đề ngày 02/6/2019, nội dung T nhận 100.000.000 đồng hứa xin việc cho con chị H vào làm việc tại An ninh Sân bay cuối tháng 7/2019 và giấy nhận tiền đề ngày 04/6/2019, nội dung T nhận số tiền 250.000.000 đồng tiếp tục hứa hẹn xin được việc vào cuối tháng 7/2019.

Toàn bộ số tiền 350.000.000 đồng chiếm đoạt của chị H, T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 5: Thông qua mối quan hệ xã hội, ông Nguyễn Văn T (sinh năm 1960, trú tỉnh Quảng Trị) liên hệ với Nguyễn Thị Ánh T để nhờ xin việc cho con trai ông là Nguyễn Tuấn A (sinh năm 1990) vào làm An ninh Sân bay Đà Nẵng, Ngày 27/8/2018, T nhận của ông T 350.000.000 đồng và viết giấy nhận tiền nội dung nhận của ông T số tiền 350.000.000 đồng để lo chạy việc, trong quá trình trao đổi và giao nhận tiền ông T có quay video để lưu giữ.

Ngày 13/11/2018, T tiếp tục yêu cầu ông T giao số tiền 300.000.000 đồng để làm chi phí xin việc đồng thời khẳng định tháng 12/2018 sẽ có quyết định đi làm. Ông T đã chuyển vào tài khoản của T số 20002123313 tại Ngân hàng A chi nhánh Đà Nẵng 300.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền của ông T, T cắt số điện thoại liên lạc, bán nhà đi khỏi địa phương.

Toàn bộ số tiền 650.000.000 đồng chiếm đoạt của ông T, T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 6: Từ ngày 09/8/2018 đến ngày 21/4/2019, T viết giấy nhận tiền của chị Nguyễn Thị H (sinh năm 1969, trú thành phố Đà Nẵng) số tiền 600.000.000 đồng để thỏa thuận xin việc cho con trai chị H là Huỳnh Tấn G (sinh năm 1990) vào làm An ninh Sân bay Đà Nẵng. Đến ngày 17/7/2019, T viết cam kết cho chị H với nội dung “Có nhận của bà H số tiền 600.000.000 đồng để lo cho cháu Huỳnh Tấn G vào sân bay nhưng không lo được nên hẹn 10 ngày sau trả đủ số tiền trên”. Sau đó, qua nhiều lần chuyển khoản, T đã trả lại cho chị H số tiền 250.000.000 đồng, số tiền còn lại 350.000.000 đồng T sử dụng trả nợ và tiêu xài hết.

Vụ thứ 7: Khoảng tháng 8/2018, chị Nguyễn Thị K (sinh năm 1966, trú thành phố Đà Nẵng) nhờ T xin cho con trai là Lê A Đ (sinh năm 1991) vào làm An ninh Sân bay Đà Nẵng, T 03 lần nhận số tiền 550.000.000 đồng của chị K, cụ thể:

- Ngày 20/8/2018, T đến nhà chị K viết giấy nhận số tiền 300.000.000 đồng hứa hẹn xin cho Đ vào Sân bay.

- Tháng 11/2018 chị K đưa cho con trai là Lê A Đ mang số tiền 100.000.000 đồng đến cửa hàng xăng dầu số 7, địa chỉ 265 Đ N, Đà Nẵng để giao cho T.

- Ngày 22/4/2019, T gọi điện thoại cho chị K yêu cầu đưa thêm số tiền 150.000.000 đồng để lo việc cho Đ đi làm. Chị K chuyển vào tài khoản số 19029263612018 tại Ngân hàng T cho T số tiền 150.000.000 đồng.

Toàn bộ số tiền 550.000.000 đồng chiếm đoạt của chị K, T sử dụng tiêu Vụ thứ 8: Thông qua anh Lê Nhật T (sinh năm 1995, trú tỉnh Thừa Thiên Huế) giới thiệu, chị Nguyễn Thị T (sinh năm 1965, trú tỉnh Thừa Thiên Huế) tìm đến T để nhờ xin việc cho con trai là Nguyễn Thành Đ (sinh năm 1995) vào làm An ninh Sân bay Đà Nẵng. Ngày 06/8/2019, T nhận 200.000.000 đồng và viết giấy nhận tiền để xin việc, T hứa hẹn đến tháng 10/2019 sẽ có việc làm nhưng không xin được việc.

Số tiền 200.000.000 đồng chiếm đoạt của chị T, T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 9: Do cần tiền để trả nợ, T đưa ra thông tin với chị Trần Thúy V (sinh năm 1965, trú thành phố Đà Nẵng) là T có khả năng xin việc cho người khác vào làm tại Cảng Hàng không quốc tế Đà Nẵng, ai có nhu cầu xin việc thì T sẽ giúp. T đã hai lần nhận 650.000.000 đồng của chị V rồi chiếm đoạt, cụ thể:

- Tháng 12/2018, chị V nhận số tiền 350.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị Thúy H (sinh năm 1959, trú thành phố Đà Nẵng) để nhờ T xin việc cho cháu Đỗ Mai Uyên N (sinh năm 1998) vào làm tiếp viên hàng không Hãng VietJet, T đồng ý và viết giấy nhận số tiền 350.000.000 đồng của chị V vào ngày 14/12/2018.

- Tháng 3/2019, chị V nhận số tiền 300.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị L (sinh năm 1964, trú thành phố Đà Nẵng) để nhờ T xin việc cho con trai chị L tên Trương Văn H (sinh năm 1993) vào làm thợ máy trong Cảng Hàng không quốc tế Đà Nẵng, T đồng ý và viết giấy nhận số tiền 300.000.000 đồng của chị V ghi ngày 13/3/2019 nhận 100.000.000 đồng và ngày 19/4/2019 nhận 200.000.000 đồng.

Số tiền 650.000.000 đồng chiếm đoạt của chị V, T sử dụng trả nợ và tiêu xài hết.

Vụ thứ 10: Tháng 5/2019, T biết ông Trương Văn T (sinh năm 1962, trú tỉnh Quảng Bình có nhu cầu chuyển công tác cho con gái tên Trương Thị Phương T (sinh ngày 29/3/1994) từ Sân bay Quốc tế Đà Nẵng về Sân Bay Đ, tỉnh Quảng Bình nên T chủ động liên hệ ông T nói có nhiều mối quan hệ nên xin chuyển công tác được với giá 250.000.000 đồng và yêu cầu ông T đưa trước 150.000.000 đồng. Ngày 14/5/2019, ông T đến Đà Nẵng gặp T và giao 150.000.000 đồng. T viết giấy nhận tiền và cam kết.

Sau đó, T liên lạc cho ông Trần Văn L (sinh 1961, trú tĩnh H Tĩnh) hỏi có quen biết ai để xin chuyển công tác cho cháu T thì ông L giới thiệu Lê Thị Minh H (sinh 1977, trú tỉnh Bắc Ninh) cho T để tự liên hệ. Ngày 19/8/2019, T gặp ông L tại thành phố T, tỉnh Quảng Nam đưa ông L số tiền 100.000.000 đồng để nhờ ông L chuyển cho H; ngày 20/8/2019, ông L đến Ngân hàng TMCP C chi nhánh Bình Định chuyển vào tài khoản số 1482205379920 của H mở tại Ngân hàng X, chi nhánh H Nội số tiền 100.000.000 đồng kèm theo nội dung “Chuyển tiền xin việc cho cháu”. Số tiền còn lại 50.000.000 đồng, T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 11: Vào tháng 4/2019, thông qua ông Vũ Đình H (sinh năm 1961, trú thành phố H Nội), chị Nguyễn Thị T (sinh năm 1979, trú tỉnh Quảng Nam) nhờ T xin việc cho Phạm Châu Huyền T (sinh năm 1990, trú tỉnh Quảng Nam) và Huỳnh Ngọc C (sinh năm 1997, trú tỉnh Quảng Nam) vào làm kế toán và nhân viên An ninh sân bay C, tỉnh Quảng Nam. T có nói với chị T hiện T làm trưởng phòng ở Sân bay Đà Nẵng và cam kết sẽ lo được việc trong vòng một tháng với giá 1.000.000.000 đồng thì chị T đồng ý, T đã hai lần nhận 700.000.000 đồng của chị T rồi chiếm đoạt:

- Vào tháng 6/2019, T nhờ con gái là Nguyễn A T (sinh năm 1997, trú TP Đà Nẵng) điều khiển xe ô tô chở T vào Núi Thành gặp chị T để nhận số tiền 500.000.000 đồng, việc giao nhận tiền có bà Lê Thị L (sinh năm 1960, mẹ chị T) chứng kiến.

- Ngày 21/6/2019, theo yêu cầu của T, chị T đến Ngân hàng X chi nhánh C chuyển vào tài khoản số 19029263612018 của T mở tại Ngân hàng K chi nhánh T số tiền 200.000.000 đồng.

Tại Công văn số 462/CV-CHKCL ngày 08/6/2020 của Cảng Hàng không C cung cấp: Năm 2019 Cảng Hàng không C không tổ chức tuyển nhân sự cho các vị trí An ninh hàng không và Kế toán; Đến thời điểm hiện tại Cảng cũng không nhận được hồ sơ xin việc có lai lịch mang tên Huỳnh Ngọc C và Phạm Châu Huyền T.

Số tiền 700.000.000 đồng chiếm đoạt của chị T, T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 12:Thông qua chị Thái Thị H (sinh 1964, trú thành phố Đà Nẵng), chị Cao Thị Đ (sinh năm 1988, trú thành phố Đà Nẵng – là con dâu của chị H) gặp T để nhờ xin việc và T đã hai lần nhận 350.000.000 đồng của chị Đ, cụ thể:

- Ngày 16/9/2019, T nhận của chị Đ số tiền 290.000.000 đồng để xin cho em trai chị Đ là Cao Văn T (sinh năm 1992, trú tại tỉnh Bình Định) vào lái xe tại Sân bay Đà Nẵng và viết giấy hứa hẹn vào tháng 10/2019 không xin được việc sẽ trả lại tiền.

- Ngày 01/10/2019, thông qua chị Đ, T nhận của anh Nguyễn Hoàng H (sinh năm 1990, trú tại Bình Định, là em bà con chị Đ) số tiền 60.000.000 đồng để xin việc cho H vào làm nhân viên bốc vác tại Sân bay Đà Nẵng và viết giấy hứa hẹn vào tháng 10/2019 không xin được việc sẽ trả lại tiền. Sau khi biết T không xin được việc, chị Đ đã trả lại cho anh H số tiền 60.000.000 đồng.

Số tiền 350.000.000 đồng chiếm đoạt của chị Đ, T sử dụng tiêu xài hết.

Vụ thứ 13: Thông qua chị Trương Thị Mỹ H (sinh năm 1992, trú Quảng Bình), tháng 7/2019 ông Nguyễn Như T (sinh 1962, trú thành phố Đà Nẵng) nhờ T xin việc cho cháu ông là Trần Thị T (sinh 1996, trú tỉnh Gia Lai) vào làm việc tại Sân bay P, tỉnh Gia Lai. T thỏa thuận với chị H, ông T giá xin việc là 350.000.000 đồng. Ông T nhờ chị H giao tiền cho T. Ngày 11/10/2019, T nhận 350.000.000 đồng và viết giấy mượn tiền cho ông T hẹn cuối tháng 10/2019 sẽ trả nhưng sau đó sử dụng số tiền ông T đưa để tiêu xài cá nhân.

Ngoài các lần chiếm đoạt tài sản nêu trên,vào năm 2017, Nguyễn Thị Ánh T quen biết với Nguyễn Thị Lệ H khi cùng bán hàng trong Sân bay Đà Nẵng. T hỏi H có khả năng xin việc cho người khác vào làm việc tại Sân bay Đà Nẵng thì H nói với T có quen với Lãnh đạo nên có thể xin được việc nên T nói dối với chị Trần Thị K (sinh năm 1972, trú tỉnh Quảng Bình) và chị Nguyễn Thị Thúy H (sinh năm 1963, trú thành phố Đà Nẵng) là T có người thân làm lãnh đạo trong Sân bay Đà Nẵng và đã xin việc được cho nhiều người để nhận tiền, viết giấy và cam kết thời gian đi làm, qua đó T đã giúp sức cho Nguyễn Thị Lệ H chiếm đoạt tài sản, cụ thể:

Vụ thứ 14: Cuối năm 2017, thông qua các mối quan hệ xã hội, chị Trần Thị K nhờ T xin cho con trai là Nguyễn Quốc T (sinh năm 1994) vào làm nhân viên An ninh Sân bay Đà Nẵng với giá 600.000.000 đồng. T yêu cầu chị K đặt cọc trước số tiền 200.000.000 đồng nên chị K đến nhà T đưa cho T số tiền 200.000.000 đồng. Ngày 16/01/2018, T chuyển đến số tài khoản số 16xx395882 của H mở tại Ngân hàng E chi nhánh H V số tiền 200.000.000 đồng của chị K để H xin việc cho em T.

Đầu năm 2018, T nói dối với K sắp xin được việc nên yêu cầu chị K chuyển thêm số tiền 300.000.000 đồng. Số tiền nhận được của chị K, ngày 05/02/2018, T chuyển vào tài khoản cho H số tiền 150.000.000 đồng; ngày 25/12/2018, T chuyển khoản cho H số tiền 50.000.000 đồng theo yêu cầu của H. Số tiền còn lại 100.000.000 đồng, T sử dụng tiêu xài cá nhân.

Toàn bộ số tiền 400.000.000 đồng T chuyển vào tài khoản cá nhân của H, H không xin việc mà chiếm đoạt sử dụng tiêu xài cá nhân.

Cuối năm 2018, chị K yêu cầu T viết giấy nhận số tiền 500.000.000 đồng nên T viết giấy ghi ngày 10/11/2018.

Vụ thứ 15: Khoảng tháng 10/2018, chị Nguyễn Thị Thúy H nhờ T xin giúp cho cháu tên Phan Thanh H (sinh 1985) vào làm nhân viên lái xe trong Sân bay Đà Nẵng, T đồng ý và nói giá là 600.000.000 đồng, yêu cầu chị H ứng trước 200.000.000 đồng để T lo chạy xin việc. Ngày 24/10/2018, T đến nhà chị H nhận số tiền 200.000.000 đồng và viết giấy nhận tiền có nội dung “Giấy nhận tiền lo việc cho cháu vào Sân bay, có nhận của chị H số tiền 200.000.000 đồng” đồng thời hứa hẹn với chị H một tháng sẽ có việc làm. Ngày 13/11/2018, T chuyển vào tài khoản số 16xx395882 của H mở tại Ngân hàng E chi nhánh H V số tiền 185.000.000 đồng và đưa tiền mặt cho H 15.000.000 đồng. Sau khi nhận 200.000.000 đồng của T, H chiếm đoạt sử dụng tiêu xài cá nhân.

Quá trình điều tra, T còn khai nhận như sau:

- Đầu năm 2018, T khai có nhận tiền xin việc của người khác, nhưng không nhớ nhận của ai và T đã chuyển tiền vào tài khoản cho H 200.000.000 đồng. H đã chiếm đoạt của T sử dụng tiêu xài cá nhân.

- Từ năm 2014 đến năm 2016, T khai nhận tiền của nhiều người (không nhớ của ai) giao cho bà Nguyễn Thị H V (sinh năm 1960, trú thành phố Đà Nẵng) số tiền 3.600.000.000 đồng, giao cho bà Nguyễn Thị N (sinh 1959, trú thành phố Đà Nẵng) số tiền 750.000.000 đồng để nhờ chạy xin việc làm nhưng bà V và bà N không xin được việc như thỏa thuận với T mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ thì bà V khai có nhận của T vài trăm triệu (không nhớ bao nhiêu) nhưng sau đó đã trả lại cho T (việc giao nhận và trả tiền giữa T và bà V không có giấy tờ gì chứng minh; còn bà N khai không có quan hệ gì với T và cũng không có nhận bất cứ khoản tiền nào từ T. Cơ quan điều tra cũng không xác định được bị hại là ai, nên không có căn cứ để xử lý đối với bà V và bà N.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2022/HS – ST ngày 29/4/2022 của Toà án nhân dân Thành phố Đà Nẵng quyết định.

I. T bố: Các bị Nguyễn Thị Ánh T, Nguyễn Thị Lệ H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Ánh T 15 (Mười lăm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 22/9/2020.

2. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Lệ H 12 (Mười hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 04/10/2021.

Bản án còn quyết định về trách nhiêm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.

Trong hạn luật định bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Bà Nguyễn Thị T kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với 02 bị cáo và đề nghị các bị cáo phải có thời gian trả nợ cụ thể đối với số tiền mà các bị cáo phải trả cho bà theo quyết định của Toà án.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo T rút đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm Sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị hại, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với đơn kháng cáo của bị cáo T.

Các luật sự bào chữa cho 02 bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm bà Nguyễn Thị T là bị hại trong vụ án có đơn kháng cáo quá hạn. Trong thời gian chuẩn bị xét kháng cáo quá hạn thì bà T có đơn xin rút đơn kháng cáo quá hạn, do vậy HĐXX không xem xét đơn kháng cáo của bà T.Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo T rút đơn kháng cáo, Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo T. Bị hại vắng mặt tại phiên toà, Hội đồng xét xử vắng mặt bị hại theo quy định chung.

[1] Nguyễn Thị Ánh T chỉ là nhân viên bán hàng và nhân viên phụ bếp thuộc Đội sản xất thức ăn Xí nghiệp thương mại và dịch vụ trực thuộc Công ty cổ phần dịch vụ hàng không Sân bay Đà Nẵng, nhưng trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 10 năm 2019, Nguyễn Thị Ánh T đã đưa ra thông tin gian dối mình là Trưởng phòng Sân bay Đà Nẵng, có nhiều mối quan hệ xã hội, có khả năng xin việc làm tại các ngành Công an, các vị trí công tác trong các Sân bay như: sân bay Đà Nẵng, sân bay C – Quảng Nam, sân bay P – Thừa Thiên Huế, sân bay P – Gia Lai, sân bay Đ – Quảng Bình,…Từ đó, Nguyễn Thị Ánh T đã nhận tiền xin việc của nhiều người rồi chiếm đoạt, cụ thể: chiếm đoạt của Thái Thị H 900.000.000 đồng; Thân Đ G 250.000.000 đồng; Phạm Quang S 100.000.000 đồng; Trần Thị Thanh H 350.000.000 đồng; Nguyễn Văn T 650.000.000 đồng; Nguyễn Thị H 600.000.000 đồng; Nguyễn Thị K 550.000.000 đồng; Nguyễn Thị T 200.000.000 đồng; Trần Thúy V 650.000.000 đồng; Trương Văn T 150.000.000 đồng; Nguyễn Thị T 700.000.000 đồng; Cao Thị Đ 350.000.000 đồng; Nguyễn Như T 350.000.000 đồng; Trần Thị K 500.000.000 đồng; Nguyễn Thị Thúy H 200.000.000 đồng. Tổng số tiền mà T đã chiếm đoạt được của 15 người bị hại nêu trên là 6.500.000.000 đồng (Sáu tỷ, năm trăm triệu đồng), mới trả lại được cho chị Nguyễn Thị H 250.000.000 đồng.

Trong việc lừa đảo chị Trần Thị K và chị Nguyễn Thị Thúy H, tham gia đồng phạm với Nguyễn Thị Ánh T còn có Nguyễn Thị Lệ H, cũng là nhân viên bán hàng trong Sân bay Đà Nẵng, đã thống nhất cùng nhau đưa ra thông tin gian dối có thể xin được việc làm. Từ đó, T đã lừa được của chị Trần Thị K 500.000.000 đồng đưa cho H 400.000.000 đồng; lừa được chị Nguyễn Thị Thúy H 200.000.000 đồng đưa hết cho H để H xin việc, nhưng H đã chiếm đoạt để sử dụng tiêu xài cá nhân. Ngoài ra, theo lời khai của T, sao kê tài khoản của H và lời khai thừa nhận của H trong năm 2018, T có chuyển vào tài khoản của H 200.000.000 đồng để H xin việc, nhưng H không xin việc mà chiếm đoạt 200.000.000 đồng này của T để tiêu xài cá nhân; tổng cộng H đã nhận của T 800.000.000 đồng.

Với hành vi nêu trên của các bị cáo T và H đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét đơn kháng cáo của bị hại yêu cầu tăng hình phạt đối với 02 bị cáo;

Hội đồng xét xử xét thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù không có khả năng xin việc làm cho người khác, nhưng các bị cáo đã đưa ra thông tin gian dối để chiếm đoạt tiền của nhiều người với số tiền lớn, đến nay không có khả năng bồi thường.

Bản án sơ thẩm đã phân hoá vai trò phạm tội của từng bị cáo, áp dụng đúng và đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo để áp dụng xử phạt bị cáo T 15 năm tù bị cáo H 12 năm tù theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự, là thoả đáng, tại cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng nào đối với 02 bị cáo; do vậy đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với 02 bị cáo của bà T là không có căn cứ được chấp nhận.

Đối với yêu cầu kháng cáo của bà T đề nghị nêu rõ thời gian trả nợ của bị cáo H đối với số tiền 700.000.000 đồng; Hội đồng xét xử xét thấy nội dung yêu cầu này thuộc phạm vi của giai đoạn thi hành án nên Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu này của bà T.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Ánh T.

Không chấp nhận đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2022/HS – ST ngày 29/4/2022 của Toà án nhân dân Thành phố Đà Nẵng.

I. T bố: Các bị Nguyễn Thị Ánh T, Nguyễn Thị Lệ H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Ánh T 15 (Mười lăm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 22/9/2020.

2. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Lệ H 12 (Mười hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 04/10/2021.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Ánh T không phải phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 272/2022/HS-PT

Số hiệu:272/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về