Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 134/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 134/2022/HS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20/5/2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 119/2022/TLST-HS ngày 22/4/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/2022/QĐXXST-HS ngày 29/4/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Hoàng Ngọc P - Sinh ngày: 21/5/2002, tại: Tỉnh Đắk Lắk.

Nơi cư trú: Thôn A, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ học vấn: 09/12; con ông: Lưu Hoàng G, sinh năm: 1965 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1972, trú tại: Thôn A, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 23/02/2022 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Y K Ayũn, trú tại: Buôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lưu Hoàng Ngọc H, địa chỉ: Thôn A, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Đình T và chị Hồ Thị H, địa chỉ: Thôn A, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

3. Chị Hồ Thị S, trú tại: Thôn A, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Y Ư Ayũn, trú tại: Buôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

2. Chị H B Kđăm, trú tại: Buôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 02/2022, Lưu Hoàng Ngọc P lên mạng facebook tìm hỏi mua xe máy của người khác rồi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản, bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 20/02/2022, P sử dụng điện thoại di động hiệu OPPO F11, màu đen, lên mạng xã hội facebook tìm, thì thấy Anh Y K Ayũn, trú tại: Buôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk có đăng bán 01 xe mô tô hiệu Suzuki Satria, màu xanh đen, biển số 47H1-677.AA trên mạng xã hội facebook nên P sử dụng tài khoản facebook mang tên Hoang hoang, nhắn tin trao đổi việc mua bán chiếc xe trên với anh Y K. P và anh Y K hẹn nhau tại khu vực Quảng trường 10/3 thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để xem xe và thoả thuận mua bán. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, anh Y K điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki Satria, biển số 47H1-677.AA, chở theo anh Y Ư Ayũn, trú tại: Buôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (là em ruột Y K) đi đến Quảng trường 10/3 để gặp P. Tại đây P và anh Y K thoả thuận mua bán xe mô tô biển số 47H1-677.AA với giá 34.000.000 đồng. Sau đó, P nói với anh Y K không mang tiền mặt và yêu cầu anh Y K đưa số tài khoản ngân hàng để P sử dụng ứng dụng Smart Banking trên điện thoại để chuyển tiền cho anh Y K. Anh Y K đưa cho P số tài khoản 5206205147003 mở tại ngân hàng Agribank của chị H B Kđăm, trú tại: Buôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (là chị dâu của anh Y K) và nói P chuyển tiền vào số tài khoản này. Sau khi có số tài khoản, P nói với anh Y K “Hôm nay là chủ nhật nên tiền chuyển vào sẽ lâu”, mục đích để có thời gian vào mạng internet tải hình ảnh thông tin chuyển khoản thành công của các ngân hàng, rồi chỉnh sửa nội dung thông tin đã chuyển tiền số tiền 34.000.000 đồng vào tài khoản của chị H B và chuyển hình ảnh này cho anh Y K xem. Lúc này, Anh Y K gọi điện thoại cho chị H B để xác nhận việc nhận tiền và nói lại với P tiền vẫn chưa được chuyển vào tài khoản, P nói do ngày chủ nhật nên tiền chuyển đến chậm. Vì tin tưởng việc P đã chuyển tiền cho mình nên anh Y K đã giao xe mô tô hiệu Suzuki Satria, màu xanh đen, biển số 47H1-677.AA, cùng giấy chứng nhận đăng ký xe và bảo hiểm xe cho P. Sau khi chiếm đoạt được xe mô tô của anh Y K, P mang đến tiệm cầm đồ “Mỹ Hạnh” (do anh Nguyễn Đình T làm chủ), địa chỉ: Thôn A, xã E, thành phố B cầm cố. Do không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên, chị Hồ Thị H (là vợ của anh Th) đã đồng ý cầm với số tiền 24.000.000 đồng. Số tiền có được, P đã tiêu xài cá nhân hết 12.000.000 đồng. Sau khi phát hiện bị P lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Anh Y K Ayũn đã làm đơn trình báo gửi đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để xử lý.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 31/KL-HĐĐGTS ngày 23/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 xe mô tô hiệu Suzuki Satria, màu xanh đen, biển số 47H1-677.AA, trị giá 35.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 137/CT-VKS-HS ngày 22/4/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Đề nghị : Xử phạt bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra xác định, 01 xe mô tô hiệu Suzuki Satria, màu xanh đen, biển số 47H1-677.AA; 01 đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 47003674; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe số AA/0870910, là tài sản của Anh Y K Ayũn. Ngày 23/3/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho Anh Y K Ayũn nhận quản lý sử dụng.

Đối với số tiền 12.000.000 đồng, quá trình điều tra xác định đây là tiền chị Hồ Thị H nhận cầm cố xe mô tô hiệu Suzuki Satria, màu xanh đen, biển số 47H1- 677.AA của Lưu Hoàng Ngọc P mà có. Ngày 23/3/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho chị Hồ Thị H.

Đối với 01 căn cước công dân số 066202011xxx mang tên Lưu Hoàng Ngọc P và 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, màu đen. Quá trình điều tra xác định, đây là giấy tờ tùy thân và tài sản riêng của bị cáo P không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với 01 biên nhận thế chấp của dịch vụ cầm đồ Mỹ Hạnh là vặt chứng của vụ án nên tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

- Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, anh Lưu Hoàng Ngọc H (anh ruột của bị cáo P) đã hoàn trả cho anh Nguyễn Đình T số tiền 12.000.000 đồng, là tiền anh Th và chị Hồ Thị H nhận cầm cố xe mô tô biển số 47H1-677.AA. Không ai có yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Các vấn đề khác đề nghị HĐXX chấp nhận nội dung như đã nêu tại bản Cáo trạng.

Bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Ngày 20/02/2022, tại khu vực Quảng trường 10/3, thuộc phường T, thành phố B, Lưu Hoàng Ngọc P đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Anh Y K Ayũn 01 xe mô tô hiệu Suzuki Satria, biển số 47H1- 677.AA, trị giá 35.000.000 đồng. Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể:

Điều 174 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, bị cáo là người có đủ năng lực để nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vẫn cố ý phạm tội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ; có nhân thân tốt, trước hành vi phạm tội ngày 20/02/2022 luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương; có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra xác định, 01 xe mô tô hiệu Suzuki Satria, màu xanh đen, biển số 47H1-677.AA; 01 đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 47003674; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe số AA/0870910, là tài sản của Anh Y K Ayũn. Ngày 23/3/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho Anh Y K Ayũn nhận quản lý sử dụng, là phù hợp.

Đối với số tiền 12.000.000 đồng, quá trình điều tra xác định đây là tiền chị Hồ Thị H nhận cầm cố xe mô tô hiệu Suzuki Satria, màu xanh đen, biển số 47H1- 677.AA của Lưu Hoàng Ngọc P mà có. Ngày 23/3/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho chị Hồ Thị H là phù hợp.

Đối với 01 căn cước công dân số 066202011xxx mang tên Lưu Hoàng Ngọc P, quá trình điều tra xác định, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo P không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, màu đen, quá trình điều tra xác định, đây là tài sản riêng của bị cáo P không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với 01 biên nhận thế chấp của dịch vụ cầm đồ M là vật chứng của vụ án nên tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

- Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, anh Lưu Hoàng Ngọc H (anh ruột của bị cáo P) đã hoàn trả cho anh Nguyễn Đình T số tiền 12.000.000 đồng, là tiền anh Th và chị Hồ Thị H nhận cầm cố xe mô tô biển số 47H1-677.AA. Không ai có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO F11, màu đen là phương tiện, bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P sử dụng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra xác định, đây là tài sản của chị Hồ Thị S (là người yêu của bị cáo P), trú tại: Thôn A, xã E, thành phố B. Ngày 20/02/2022, chị S cho bị cáo P mượn để sử dụng, việc bị cáo P sử dụng vào việc phạm tội chị S không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý đối với chị Hồ Thị S và không tạm giữ điện thoại OPPO F11 là phù hợp.

Đối với chị Hồ Thị H là người nhận cầm cố xe mô tô biển số 47H1 – 677.AA. Quá trình điều tra xác định, chị H không biết đây là tài sản phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý đối với chị Hồ Thị H là phù hợp.

Đối với hành vi nhận cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người khác nhưng không có giấy ủy quyền hợp lệ của Cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm dồ M do anh Nguyễn Đình T làm chủ. Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã có công văn đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 174; các điểm b, h, i s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P cho Uỷ ban nhân dân xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là nơi bị cáo cư trú để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự. Trong trường hợp bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả cho Lưu Hoàng Ngọc P 01 căn cước công dân số 066202011xxx mang tên Lưu Hoàng Ngọc P.

Trả cho Lưu Hoàng Ngọc P 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, màu đen, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, anh Lưu Hoàng Ngọc H (anh ruột của bị cáo P) đã hoàn trả cho anh Nguyễn Đình T số tiền 12.000.000 đồng, là tiền anh Th và chị Hồ Thị H nhận cầm cố xe mô tô biển số 47H1-677.AA. Không ai có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lưu Hoàng Ngọc P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 134/2022/HS-ST

Số hiệu:134/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về