Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 06/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện T, Tòa án nhân dân Huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 150/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2012 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn T, xã M, Huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Liễu và bà: Đặng Thị Hạnh; có vợ là Trần Thị Pvà 01 con nhỏ sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/6/2021, cHển tạm giam ngày 01/7/2021; có mặt.

- Bị hại: Chị Đặng Thị V, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn N, xã T, Huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Quý T, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn K, xã T, Huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29/5/2021, Nguyễn Văn H lên mạng xã hội thấy chị Đặng Thị V, sinh năm 1988, ở thôn N, xã T, Huyện T, thành phố Hải Phòng đăng tin bán xe mô tô nhãn hiệu Honda SH-150i màu đen, biển kiểm soát 15G1-746.85 trên tài khoản facebook “Đặng V”. Do không có tiền ăn tiêu nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe trên của chị V. H sử dụng tài khoản facebook “Cầm đồ” liên lạc với chị V hỏi mua xe và yêu cầu xem xe, đi thử. Chị V tưởng thật, đã hẹn H đến thị trấn N Đèo, Huyện T, Hải Phòng để giao dịch. H thuê xe ôm (không quen biết) do ông Nguyễn Văn Tĩnh, sinh năm 1960, trú tại thôn Trại, xã Thủy Đường, Huyện T, thành phố Hải Phòng chở đến điểm hẹn. Đến nơi, khoảng 07 giờ 40 ngày 30/5/2021, H gặp chị V và bạn là anh Vũ Hồng Hà, sinh năm 1983, trú tại phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. H xem xe và hỏi đi thử, chị V đồng ý. Lần thứ nhất, H đi thử có anh Hà bạn chị V ngồi phía sau xe. H trả chị V 89.000.000 đồng (tám mươi chín triệu đồng) nhưng chị V không đồng ý bán xe. H lấy cớ để tiếp tục đi thử xe lần 2, lúc này H đi một mình. Lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, H đã phóng xe đi. Khi đi đến cửa hàng sửa chữa xe mô tô của ông Trần Văn Nam, sinh năm 1963 ở thôn Minh Khai, xã M, Huyện A, thành phố Hải Phòng để làm lại chìa khóa (chìa khóa từ chị V đang giữ). H mở cốp xe thấy có 01 chiếc túi xách bên trong có 01 chiếc vòng tay bằng đá màu xanh. H ném chiếc túi xách đi, gửi chiếc xe mô tô trên ở khu vực gần bệnh viện đa khoa Huyện A, mang chiếc vòng tay về nhà cất giấu.

Buổi tối, cùng ngày 30/5/2021, H tiếp tục sử dụng mạng xã hội, tài khoản facebook “Cầm đồ” đăng tin bán xe mô tô SH-150i không giấy tờ. Thấy vậy, Nguyễn Quý T, sinh năm 1990 ở xã T, Huyện Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng sử dụng tài khoản facebook “Nguyen Tan” hỏi mua xe. Hai bên thỏa thuận bán xe với giá 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng). Ngày 01/6/2021, T gặp H để giao dịch, H nói với T là xe mua của chị V ở T nhưng do H chưa trả hết tiền nên chị V còn giữ giấy tờ xe. Hai bên thỏa thuận tiếp, khi nào H giao giấy tờ xe cho T thì T sẽ trả thêm tiền cho H, nhưng không nói rõ số tiền trả thêm.

Tối ngày 01/6/2021, T nhắn tin cho Đào Văn Minh, sinh năm 1999, ở thôn Đông, xã Thủy Đường, Huyện T, thành phố Hải Phòng nói muốn bán chiếc xe SH trên. T cũng nói cho Minh biết nguồn gốc chiếc xe trên là mua lại, người bán nói mua của chị V ở T, do chưa thanh toán hết tiền nên chủ còn giữ giấy tờ xe. Minh đã giới thiệu cho Vũ Việt Anh, sinh năm 1990 ở thôn Tây, xã Thủy Đường, T, Hải Phòng là người có nhu cầu mua xe đi lại.

Ngày 02/6/2021, Minh, Việt Anh và Nguyễn Văn Hải, sinh năm 1989 ở thôn Trại, xã Thủy Đường, Huyện T, thành phố Hải Phòng đến gặp T để xem xe (không gắn biển kiểm soát) tại khu vực phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Thấy xe không gắn biển kiểm soát, nhưng do tin tưởng giới thiệu của Minh là xe có nguồn gốc rõ ràng nên Việt Anh, Hải không hỏi. T bán xe với giá 32.000.000 đồng (ba mươi hai triệu đồng), Việt Anh không đồng ý mua. Các bên ra về. Đến tối ngày 02/6/2021, T nhắn tin cho Minh đồng ý bán xe với giá 24.000.000 đồng (hai mươi tư triệu đồng) và hẹn giao xe ở khu vực cầu Bính, thuộc địa phận quận Hồng Bàng, Hải Phòng.

Khoảng 14h30 ngày 03/6/2021, Việt Anh và T giao dịch mua bán xe. Việt Anh trả cho T 22.500.000 đồng (hai mươi hai triệu năm trăm ngàn đồng), còn lại 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm ngàn đồng) trả sau. Số tiền này, sau đó Việt Anh đã đưa cho Minh để trả cho T nhưng Minh chưa thanh toán cho T. Việt Anh mang xe đi sửa chữa hết 1.000.000 đồng rồi lấy biển kiểm soát 15B3-339.28 của xe mô tô Airblade của mình gắn lên xe SH-150i để đi lại, tránh bị kiểm tra. Việt Anh sử dụng xe được khoảng 10 ngày, Hải đặt vấn đề mua lại xe của Việt Anh. Do Hải đã đi cùng Việt Anh xem xe từ đầu, tin tưởng xe có nguồn gốc, tham rẻ nên khi thấy Việt Anh cần tiền, Hải đã hỏi mua xe SH-150i trên. Việt Anh đồng ý bán cho Hải với giá 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng) vào ngày 13/6/2021. Hải mượn biển kiểm soát mà Việt Anh gắn trên xe SH-150i hẹn đến khi có giấy tờ xe và biển kiểm soát thật thì trả lại.

Sau khi bị chiếm đoạt xe mô tô, chị V đến Công an thị trấn N Đèo trình báo. Ngày 25/6/2021, Nguyễn Văn H bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Quá trình bắt giữ, Cơ quan Công an thu giữ của H 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng gắn SIM số 0796474959.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn H thu giữ 01 vòng đá màu xanh (của chị V) và 01 sim điện thoại số 0902067504. Tiến hành khám xét nhà Nguyễn Quý T và Vũ Việt Anh, Cơ quan Công an không thu giữ đồ vật liên quan.

Quá trình điều tra, đến ngày 09/7/2021, Nguyễn Văn Hải tự nguyện mang chiếc xe mô tô SH-150i gắn biển số 15B3-339.28 (giả) đến cơ quan công an giao nộp.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 36/HĐĐGTS ngày 02/6/2021 của Hội đồng định giá trong Tố tụng Huyện T kết luận: Chiếc xe mô tô SH-150i của chị V bị chiếm đoạt có trị giá là 90.000.000đ (chín mươi triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra, bị hại là chị Đặng Thị V trình bày phù hợp với diễn biến nêu trên. Khi H đi thử xe lần thứ 2, chị V nghĩ H thiện chí mua và tưởng người lái xe ôm là bạn H và tự tin mình đang giữ chìa khóa xe (chìa khóa từ) nên chị V không nghi ngờ. Sau đó, H không quay lại, chị V không thấy H quay lại, kiểm tra mới biết người lái xe ôm không quen biết H nên đã đến Cơ quan Công an trình báo. Khoảng 10 ngày sau khi bị chiếm đoạt xe, H có liên lạc với chị V và thông báo đã bán xe, đề nghị trả dần. Do không quen biết nhau nên chị V không đồng ý và giả vờ nói cHuyện với H để giữ liên lạc, tìm cách lấy lại xe nhưng sau đó, H không liên lạc với chị V nữa. Trị giá chiếc vòng và chiếc túi xách nhỏ nên chị V không yêu cầu định giá, xử lý. Quá trình điều tra, chị V đã nhận lại chiếc xe trên và những tài sản khác. Chị V không yêu cầu bồi thường thêm.

Nguyễn Văn H khai phù hợp với nội dung nêu trên. H và chị V không quen biết nhau từ trước. Khi H chiếm đoạt được xe SH-150i của chị V, H tiếp tục đăng trên mạng xã hội để bán. H đăng tải thông tin “bán xe SH-150i không giấy tờ”, khi T hỏi mua, H đã nói dối T là xe mua lại của chị V do chưa trả hết tiền nên chị V còn giữ giấy tờ. H không nói cho T biết là xe chiếm đoạt của chị V mà có. Sau khi đã bán xe cho T, H có liên lạc với chị V nói đã bán xe, xin khất trả dần nhưng chị V không đồng ý và yêu cầu phải trả xe mô tô lại cho chị V. Khi chị V hỏi địa chỉ H đã bán xe để đi chuộc lại nhưng H không cung cấp và không liên lạc lại với chị V.

Ban đầu tại cơ quan điều tra, Nguyễn Quý T khai: T thấy giao bán xe trên mạng nên hỏi mua. T hỏi rõ nguồn gốc xe thì H nói là mua của chị V ở T, chưa trả hết tiền nên chị V còn giữ giấy tờ. T tin tưởng H nên đã mua xe. Việc giao dịch mua bán xe, hai bên chỉ thỏa thuận miệng, không lập văn bản.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H thừa nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung Cáo trạng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, cụ thể vào Ngày 30/5/2021, Nguyễn Văn H biết chị Đặng Thị V muốn bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH-150i mang biển kiểm soát 15G1-746.85 trên mạng xã hội. H đã sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt chiếc xe trên của chị V bằng cách: sử dụng tài khoản facebook “Cầm đồ” để liên lạc với chị V qua mạng xã hội, cung cấp thông tin giả (giả vờ có nhu cầu mua xe của V) để trao đổi, giao dịch mua bán. Khi tiếp cận được tài sản, H lấy có kiểm tra chất lượng xe mô tô của chị V bằng cách đi thử. Thấy chị V nghi ngờ, cho người đi cùng khi H kiểm tra xe. H giả vờ trả giá cao và đòi đi thử xe lần nữa. Lợi dụng sự tin tưởng của chị V, H đã phóng xe đi, chiếm đoạt tài sản của chị V. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng) là tài sản hợp pháp của chị V và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Về vật chứng trong vụ án:

Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone 6 và 01 sim điện thoại số 0902067504 Công an thu giữ của H cHển Chi cục thi hành án dân sự Huyện T quản lý.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH-150i và 01 chiếc vòng đá màu xanh, Công an thu giữ. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là chị Đặng Thị V nên Cơ quan điều tra đã trả lại những tài sản trên cho chị V. Đối với chiếc biển số xe SH-150i (BKS 15G1-746.85), T tháo ra trước khi bán xe cho Việt Anh quá trình điều tra không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự, vấn đề dân sự trong vụ án: Tài sản xe mô tô nhãn hiệu Honda SH-150i bị chiếm đoạt đã trả lại cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường gì.

Bản Cáo trạng số 156/CT-VKSTN ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện T truy tố Nguyễn Văn H về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 36 đến 42 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại số 0902067504; tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện T và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân Huyện T và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bởi lời khai của người làm chứng; lời khai của bị hại; vật chứng thu giữ được cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa. Vì vậy có đủ căn cứ xẫ định Nguyễn Văn H đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH-150i có giá trị 90.000.000 đồng của bị hại, tội phạm và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn H được quy định tại khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, không có tài liệu, chứng cứ nào xác định bị cáo không có tội.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với mức như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Tại khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự, vấn đề dân sự trong vụ án:

Tài sản xe mô tô nhãn hiệu Honda SH-150i bị chiếm đoạt đã trả lại cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Số tiền anh T đã dùng mua xe của bị cáo, hiện cơ quan điều tra đã quyết định tách hành vi mua bán xe mô tô trên của anh T và các đối tượng khác để điều tra, làm rõ và xử lý sau nên cần tách phần dân sự, trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với anh T để giải quyết bằng một vụ án khác khi anh T có yêu cầu hoặc có quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

[6]. Về xử lý vật chứng: Chiếc điện thoại Iphone 6 và 01 sim điện thoại số 0902067504 của bị cáo, bị cáo đã sử dụng để thực hiện tội phạm, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy 01 điện thoại số 0902067504; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone 6 là phù hợp quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[7]. Về án phí, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo,bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/6/2021.

Về trách nhiệm dân sự, vấn đề dân sự trong vụ án:

Số tiền anh T đã dùng mua xe của bị cáo, hiện cơ quan điều tra đã quyết định tách hành vi mua bán xe mô tô của anh T và các đối tượng khác để điều tra, làm rõ và xử lý sau, quyết định tách phần dân sự, trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với anh T để giải quyết bằng một vụ án khác khi anh T có yêu cầu hoặc có quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đã qua sử dụng, không kiểm tra hoạt động của máy; tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại 0902067504 ( Vật chứng có đặc điểm được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện T, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo đối với phần liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về