Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 47/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 47/2021/HSST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình xét xử sở thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 49/2021/HSST ngµy 26/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2021/ QĐXXST – HS ngày 06/9/2021 với bị cáo:

Họ và tên: Ngần Thị Ng. Tên gọi khác: Không Sinh ngày: 07/08/2002 HKTT: TK 26/7, thị trấn NTMC, MC, SL.

Nghề nghiệp: LĐTD.

Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hoá: 08/12.

Con ông: Ngần Văn Kh, sinh năm: 1983; Con bà: Vũ Thị Th, sinh năm: 1983.

Chồng: Vũ Văn C, sinh năm: 1994; Con: 01 con Vũ Việt Th, sinh năm 2019.

Gia đình có 02 chị em, bị can là con lớn nhất trong gia đình, nhỏ nhất sinh năm 2008.

Tiến án, tiền sự: Không.

Tạm giữ, tạm giam từ 14/4/2021 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam -Đại diện theo ủy quyền: Bà Đinh Thị Kim Th – Chức vụ: Giám đốc phòng giao dịch Lương Sơn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hòa Bình. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/Chị Vũ Thị H, Sinh năm 1989.Có đơn xin xét xử vắng mặt. Trú tại: VT, xã CĐ, huyện GB, tỉnh BN.

Chỗ ở hiện nay: Thôn ẤĐ, xã YT, huyện YP, tỉnh BN.

2/ Anh Hoàng Văn Th, sinh năm 1999.Có đơn xin xét xử vắng mặt. Trú tại: BL, xã GP, huyện PY, tỉnh SL.

Chỗ ở hiện nay: Ngõ 93B, tổ 5 TX, thị trấn XM, huyện CM, thành phố HN.

Người làm chứng:

Chị Nguyễn Thị Thu Tr, sinh năm 1988. Vắng mặt Trú tại: Tổ 5, phường HN, thành phố HB, tỉnh HB.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29/3/2021 Ngần Thị Ng, sinh năm 2002, HKTT: Tiểu khu 26/7 thị trấn nông trường MC, MC, SL đi từ MC, SL xuống BN để vào khu công nghiệp xin việc làm, tại đây Ng có quen biết với chị Vũ Thị H, SN: 1989, HKTT: VT, CĐ, GB, BN là chủ quán cắt tóc gội đầu Mai Hương tại ÂĐ, YT, YP, BN do Ng đã nhiều lần đến gội đầu tại quán, hai bên có cho nhau số điện thoại liên hệ.

Khoảng 17h ngày 04/04/2021 Ngần Thị Ng đến quán của chị H thì phát hiện không có ai ở trong quán nên Ng đã mở cửa đi vào chỗ chiếc tủ sắt mở ngăn kéo Ng phát hiện bên trong có 01 (một) chiếc ví màu đen, Ng đã lấy cho vào trong túi xách của mình rồi đi ra ngoài cửa quán. Lúc này Ng thấy chị H đi từ bên quán hàng xóm về, hai người đi vào trong quán ngồi nói chuyện một lúc, sau đó Ng có nghe điện thoại rồi ra về. Khoảng 30 phút sau chị H kiểm tra thì phát hiện mất chiếc ví bên trong có: 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Vũ Thị H, 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV mang tên Vũ Thị H, 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Vũ Thị H, 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô, 01 (một) thể bảo hiểm y tế mang tên Vũ Thị H, 01 (một) giấy bảo hiểm xe mô tô và khoảng 200.000 VNĐ (hai trăm nghìn đồng). Ngay sau khi bị mất trộm, chị Hương đã điện thoại lên tổng đài Ngân hàng BIDV khóa tài khoản ngân hàng của mình lại.

Ngần Thị Ng khi lấy được ví của chị H đã đi về phòng trọ, Ng kiểm tra thấy có chứng minh nhân dân, thẻ ngân hàng, một số giấy tờ khác của chị H và số tiền khoảng 200.000 VNĐ (Hai trăm nghìn đồng). Ngần Thị Ng cất giấy tờ vào túi của mình còn tiền Ng sử dụng vào mục đích chi tiêu cá nhân. Sau khi có giấy tờ của chị H, Ng đã sử dụng số điện thoại 0376.803.762 của mình gọi điện lên tổng đại Ngân hàng BIDV nói là bị mất thẻ ATM và yêu cầu khoá tài khoản ngân hàng, nhân viên tổng đài thông báo phải khoá cả số điện thoại đăng ký tài khoản nếu như bị mất điện thoại. Ngần Thị Ng tiếp tục sử dụng số điện thoại 0376.803.762 gọi lên tổng đài Viettel yêu cầu khoá số điện thoại 0382.803.832 của chị H (với mục đích sau này kiểm tra xem trong tài khoản của chị H có tiền hay không để chiếm đoạt).

Đến tối ngày 04/04/2021 Ngần Thị Ng đi từ BN lên Thị trấn XM, CM, HN để gặp bạn là Hoàng Văn Th, SN: 1999 đang ở tại khu TX, TT XM, CM, HN. Ngần Thị Ng ở đó cho đến chiều ngày 13/04/2021 Ng tìm Ngân hàng BIDV ở khu vực TT XM nhưng không có nên đã đi vào TT LS, LS, HB. Khi đi đến phòng giao dịch huyện LS ( Đ/c: tk 8, thị trấn LS, huyện LS, tỉnh HB) của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hòa Bình, Ngọc có gặp chị Tr là nhân viên giao dịch, tại đây Ng sử dụng Chứng minh nhân dân và thẻ ngân hàng của chị H, tự nhận mình là chị H để yêu cầu chị Tr thay đổi mật khẩu tài khoản ngân hàng, nhưng khi biết phải đợi trong thời hạn là 07 ngày, Ng đã hỏi xem số tiền trong tài khoản còn bao nhiêu. Khi được thông báo trong tài khoản có số tiền 49.000.000 VNĐ (bốn mươi chín triệu đồng). Ng đã yêu cầu chuyển toàn bộ số tiền đó từ tài số tài khoản 25610001756230 Ngân hàng BIDV của chị Vũ Thị H sang tài khoản số 3140205542643 của Hoàng Văn Th (do khi đó tài khoản ngân hàng của chị H đang bị khóa do nhập mật khẩu sai nhiều lần). Sau khi xác nhận đã chuyển tiền thành công Ng đã đi về lại khu trọ, đến tối khi gặp Th có cho biết đã nhận được số tiền nhưng không sử dụng được, báo lỗi nên Ng bảo để sáng hôm sau lên ngân hàng kiểm tra. Về phía phòng giao dịch LS Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh HB, sau khi thực hiện việc chuyển tiền từ tài khoản chị Vũ Thị H thì nhận được thông báo từ tổng đài báo có người là chủ tài khoản Vũ Thị H yêu cầu khóa tài khoản ngân hàng vì nhận được thông báo giao dịch chuyển tiền, trong khi chị H không thực hiện giao dịch. Ngân hàng BIDV đã thông báo đến ngân hàng nhận tiền tạm thời phong tỏa tài khoản để xác minh.

Đến sáng ngày 14/04/2021 Ng cùng với Th lên phòng giao dịch LS – Ngân hàng BIDV chi nhánh HB để kiểm tra. Sau khi xác nhận Ng là người chiều ngày 13/04/2021 đã đến phòng giao dịch để chuyển tiền nên cán bộ phòng giao dịch đã mời Ng lên phòng khách hàng để làm việc. Tại đây, thấy Ng có nhiều biểu hiện không bình thường nên Ngân hàng đã thông báo đến Công an huyện LS, tỉnh HB. Sau khi tiếp nhận thông tin, Công an huyện LS đã đưa Ng và những người liên quan về trụ để làm việc. Tại đây, Ng đã đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình về việc sử dụng giấy tờ của chị Vũ Thị H, lừa dối cán bộ ngân hàng mình là H để chiếm đoạt số tiền là 49.000.000 VNĐ (bốn mươi chính triệu đồng) của chị Hương.

* Vật chứng vụ án:

- Số tiền 49.000.000 đồng.

- 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Vũ Thị H.

- 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV mang tên Vũ Thị H.

- 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Vũ Thị H.

- 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô.

- 01 (một) thể bảo hiểm y tế mang tên Vũ Thị H.

- 01 (một) giấy bảo hiểm xe mô tô.

Số vật chứng trên CQĐT Công an huyện Lương Sơn đã trả cho chủ sở hữu là chị Vũ Thị H.

- 01 (một) điện thoại di động OPPO màu đen.

- 01 (một) xe mô tô BKS: 26D1 – 18398.

- 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Văn Th.

Số vật chứng trên CQĐT Công an huyện Lương Sơn đã trả cho chủ sở hữu là anh Hoàng Văn Th.

- 01 (một) điện thoại Vivo màu đỏ (hiện đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình).

* Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Đại diện theo ủy quyền: bà Đinh Thị Kim Th(Giám đốc phòng giao dịch Lương Sơn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hòa Bình); người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: chị Vũ Thị H không có yêu cầu, đề nghị gì về bồi thường dân sự đối với bị cáo Ngần Thị Ng.

Tại phiên tòa bị cáo Ngần Thị Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.

Cáo trạng số 45/CT - VKSLS ngày 25/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố bị cáo Ngần Thị Ng về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 268, Điều 269, Điều 292,Điều 293, Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ – UBTVQH của Ủy ban thương vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án tuyên bố bị cáo Ngần Thị Ng phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, xử phạt bị cáo Ngần Thị Ng từ 24 đến 30 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2021.

Do bị cáo Ngần Thị Ng là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

*Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung công quỹ số Nhà nước 01 (một) điện thoại Vivo màu đỏ của bị cáo Ngần Thị Ng.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Đại diện theo ủy quyền: bà Đinh Thị Kim Th(Giám đốc phòng giao dịch Lương Sơn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hòa Bình) không có yêu cầu bồi thường gì đối với bị cáo Ng. Chị Vũ Thị H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì đối với bị cáo Ng nên không xem xét giải quyết.

*Về án phí:

Buộc bị cáo Ngần Thị Ng phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tố tụng: Tội phạm xảy ra tại tk 8, thị trấn LS, huyện LS, tỉnh HB, bị cáo bị truy tố theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là 03 năm, theo quy định tại Điều 268, 269 Bộ luật tố tụng hình sự là thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt , người làm chứng vắng mặt nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, việc họ vắng mặt tại không làm ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo Ngần Thị Ng là rõ ràng, phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng thu được cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án vì vậy có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 15h ngày 13/04/2021 tại Phòng giao dịch huyện LS của Ngân hàng BIDV chi nhánh HB có địa chỉ: TK8, TT LS, LS, HB. Ngần Thị Ng, SN: 2002, HKTT: Tiểu khu 26/07 thị trấn NTMC, MC, SL đã sử dụng giấy tờ tuỳ thân và thẻ ngân hàng của chị Vũ Thị H, SN: 1989 hiện ở ÂĐ, YT, YP, BN, lừa dối nhân viên giao dịch Ngân hàng BIDV thuộc Phòng giao dịch huyện LS - Ngân hàng BIDV chi nhánh HB chuyển số tiền 49.000.000 đồng (bốn mươi chín triệu đồng) trong tài khoản ngân hàng của chị H sang tài khoản của Hoàng Văn Th, SN: 1999, hiện ở khu TX, TT XM, CM, HN (là bạn của Ng) nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền trên.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội thì thấy:

Hành vi bị cáo Ngần Thị Ng dùng thủ gian dối đoạn tự nhận mình là Vũ Thị H chủ tài khoản thẻ ATM số 2561000175230 của Ngân hàng BIDV, lừa dối nhân viên phòng giao dịch LS thuộc Ngân hàng BIDV chi nhánh HB tin đó là thật chuyển số tiền 49.000.000 đồng từ tài khoản của chị H sang tài khoản số 3140205542643 của Hoàng Văn Th ( bạn của Ng) nhằm chiếm đoạt số tiền trên đã phạm vào tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.Do vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện LS, tỉnh HB truy tố bị cáo theo khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo Ngần Thị Ng tuổi đời còn trẻ nhưng ham chơi lười lao động, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết nhận thức đúng sai, bị cáo nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người là vi phạm pháp luật nhưng do coi thường pháp luật, muốn hưởng thụ thành quả lao động của người khác một cách trái pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an trong khu vực, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.Số tiền bị cáo chiếm đoạt có giá trị lớn nên cần phải lên án và xử lý nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định theo quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự mới đủ để răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét nhân thân của bị cáo trong vụ án: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Ng đã thành khai báo ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đầu thú, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc khi lượng hình đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Ngần Thị Ng là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[5] Hoàng Văn Th và Ngần Thị Ng có quen biết nhau từ trước nên khi Ng hỏi mượn tài khoản của mình để chuyển tiền Th đã cho Ng mượn, nhưng khi nhận được tiền Th kiểm tra phát hiện không sử dụng được nên đã cùng Ng lên ngân hàng kiểm tra do sợ việc chuyển khoản bị lỗi. Bản thân Th không biết việc Ng sử dụng giấy tờ cá nhân của người khác lừa dối cán bộ ngân hàng để chiếm đoạt số tiền 49.000.000 VNĐ(bốn mươi chín triệu đồng). Do vậy không có căn cứ xử lý đối với Hoàng Văn Th mà xác định Th là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản (chiếc ví) của chị Vũ Thị H vào ngày 04/04/2021 của Ngần Thị Ng tại ÂD, YT, YP, BN trong ví có khoảng 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) và một số giấy cá nhân của chị Vũ Thị H. Quá trình làm việc với chị H được biết do số tiền mặt mất không đáng kể nên chị H không trình báo chính quyền địa phương, bản thân chị khi bị mất trộm cũng đã chủ động báo Ngân hàng BIDV khóa tài khoản, mặt khác vụ việc xảy ra ở địa phận ÂĐ, YT, YP, BN không thuộc thẩm quyền giải quyết của Công an huyện LS, do vậy Cơ quan CSĐT đã làm công văn số 451 ngày 16/05/2021 trao đổi đối với công an huyện YP, BN để giải quyết theo thẩm quyền.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền 49.000.000 đồng.

- 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Vũ Thị H.

- 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV mang tên Vũ Thị H.

- 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Vũ Thị H.

- 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô.

- 01 (một) thể bảo hiểm y tế mang tên Vũ Thị H.

- 01 (một) giấy bảo hiểm xe mô tô.

Số vật chứng trên CQĐT Công an huyện Lương Sơn đã trả cho chủ sở hữu là chị Vũ Thị H nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết - 01 (một) điện thoại di động OPPO màu đen.

- 01 (một) xe mô tô BKS: 26D1 – 18398.

- 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Văn Th.

Số vật chứng trên CQĐT Công an huyện Lương Sơn đã trả cho chủ sở hữu là anh Hoàng Văn Th nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- 01 (một) điện thoại Vivo màu đỏ ( không kiểm tra chất lượng máy bên trong).Chiếc điện thoại này bị cáo Ngần Thị Ng sử dụng trong suốt quá trình phạm tội như: liên lạc với tổng đài Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam lừa dối mình là chủ sở hữu thẻ ATM số 25610001756230 của Ngân hàng BIDV, mà thực chất chị Vũ Thị H mới là chủ thẻ báo mất thẻ ATM và đề nghị khóa thẻ; gọi lên tổng đài Viettel yêu cầu khoá số điện thoại 0382.803.832 của chị H ( số điện thoại này chị H dùng để đăng ký tài khoản) nhằm chiếm đoạt số tiền 49.000.000 đồng có trong thẻ.Như vậy xác định chiếc điện thoại này của Ng là công cụ phạm tội, có giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

(Toàn bộ số vật chứng này hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/8/2021).

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Đại diện theo ủy quyền: bà Đinh Thị Kim Th(Giám đốc phòng giao dịch Lương Sơn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh HB) không có yêu cầu bồi thường gì đối với bị cáo Ng. Chị Vũ Thị H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu, đề nghị gì về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Ngần Thị Ng phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174, Điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 268, Điều 269, Điều 292, Điều 293,Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

1.Tuyên bố: Bị cáo Ngần Thị Ng phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Xử phạt bị cáo Ngần Thị Ng 24 ( Hai tư ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2021 2.Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại Vivo màu đỏ.

Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/8/2021 giữa Cơ quan CSĐT công an huyện LS, tỉnh HB và Chi cục thi hành án dân sự huyện LS, tỉnh HB.

3.Về án phí: Bị cáo Ngần Thị Ng phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm,bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

748
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 47/2021/HSST

Số hiệu:47/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về