Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 03/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 11/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Chiều ngày 11 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 41/2021/HSST ngày 01/7/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2021 ngày 14/8/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên bị cáo Trương Thị X.Tên gọi khác: không; Sinh ngày 10 tháng 8 năm 1989. Tại: xã Nghi Kiều, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký HKTT và chổ ở: xóm 1A, xã Nghi Kiều, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam;

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ, đảng phái: Quần chúng. Con ông: Trương Xuân Cương; Sinh năm 1964; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con bà: Nguyễn Thị Vân; Sinh năm 1967; Nghề nghiệp: Nội trợ. Cả hai hiện đang cư trú tại: thôn 1, xã Nghi Kiều, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Anh chị em ruột: có ba người, bị cáo là con thứ nhất. Chồng:

Nguyễn Văn Thuận; Sinh năm 1989; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Hiện đang cư trú tại: thôn 1, xã Nghi Kiều, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Con: có 02 đứa, đứa lớn sinh năm 2015, đứa bé sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không.

Biện pháp ngăn chặn đã áp dụng: Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú’’ từ ngày 02/4/2021, tại xã Nghi Kiều, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Dương Trọng Ph, sinh ngày 15/8/1989; nghề nghiệp: Lao động tự do; trú tại: thôn Trung Tiến, xã Cẩm Trung, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Lê Thị H, sinh ngày 8/5/1970; nghề nghiệp: Lao động tự do; trú tại: Khối 3, thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1964; nghề nghiệp: Lao động tự do; trú tại:

thôn Tân Long, thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Giang, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng tháng 8/2010, Trương Thị X đi xuất khấu lao động tại Đài Loan, gặp và quen biết với anh Dương Trọng Ph; trú tại xã Cẩm Trung, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 2014, sau khi về Việt Nam, X và anh Ph vẫn giữ liên lạc với nhau qua điện thoại nên X biết rõ về gia đình anh Ph. Trong quá trình quen biết, X biết được rõ về nhân thân em gái vợ của anh Ph là chị Nguyễn Thị Hà M, trú tại thôn Lê Lợi, xã Kỳ Xuân, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hiện đang xuất khẩu lao động tại Nhật Bản nên X nảy sinh ý định giả mạo là Nguyễn Thị Hà M để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Ph. Để thực hiện ý định của mình, vào ngày 17/01/2021 Trương Thị X sử dụng điện thoại Samsung Galaxy, bên trong gắn số thuê bao 0976.806.160 tạo tài khoản Zalo “Nguyễn Thị Hà M” và lấy ảnh tải từ tài khoản Facebook của chị Nguyễn Thị Hà M để làm ảnh đại diện, kết bạn với tài khoản Zalo “Trọng Ph”, được anh Ph đồng ý. Qúa trình nói chuyện, X nói dối mình là em gái vợ, biết rõ về gia đình anh Ph nên anh Ph tin tưởng. Sau khi đã tạo dựng được niềm tin, vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 18/01/2021, X nhắn tin vào tài khoản Zalo của anh Ph, nói dối mượn 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) để trả nợ cho bạn ở Việt Nam vì bạn có việc cần gấp, khi nào nhận lương sẽ trả lại cho anh Ph. Nghĩ là em gái vợ đang cần tiền nên anh Ph đồng ý và chuyển khoản trước 10 triệu theo yêu cầu của X. X gửi vào tin nhắn Zalo cho anh Ph số tài khoản 0641000035029 Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam (Viết tắt là Ngân hàng Vietcombank) mang tên Lê Thị H, để anh Ph chuyển tiền. Đến 08 giờ 54 phút cùng ngày, anh Ph sử dụng phần mền Internet Banking chuyển từ tài khoản Ngân hàng Vietcombank 0201000537146 của mình số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) vào tài khoản 0641000035029 Ngân hàng Vietcombank mang tên Lê Thị H và chụp lại kết quả chuyển tiền thành công gửi qua tin nhắn Zalo cho Trương Thị X. Sau khi nhận được tin nhắn đã chuyển tiền từ anh Ph, Trương Thị X gọi điện thoại cho bà Lê Thị H, yêu cầu bà H chuyển số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) vào tài khoản số 6100205503190 mang tên Trương Thị X mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; số tiền còn lại 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) X cho bà H để chi tiêu cá nhân. Sau khi nhận được yêu cầu của Trương Thị X, bà Lê Thì H đã chuyển cho X số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).

Đến 09 giờ 01 phút cùng ngày, Trương Thị X tiếp tục nhắn tin cho anh Dương Trọng Ph nói chưa đủ tiền trả nợ cho bạn nhưng lúc này tài khoản chỉ còn 8.000.000đ nên anh Ph chuyển khoản vào tài khoản 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) và X đồng ý. Tiếp đó, X gửi vào tin nhắn Zalo của anh Ph số tài khoản 000296156 Ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế Việt Nam (VIB) mang tên Nguyễn Văn M và nói dối anh Ph là tài khoản của anh trai bạn cần chuyển tiền. Vào lúc 09 giờ 12 phút cùng ngày, anh Ph đã sử dụng phần mền Internet Banking chuyển từ tài khoản Ngân hàng Vietcombank 0201000537146 của mình số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) vào tài khoản ngân hàng 000296156 mang tên Nguyễn Văn M do X cung cấp và chụp lại kết quả chuyển tiền thành công gửi qua tin nhắn Zalo cho Trương Thị X. Sau khi nhận được thông báo từ anh Ph, Trương Thị X đã gọi điện thoại cho Nguyễn Văn M, nói dối chuyển nhầm tiền nên yêu cầu anh Mạnh chuyển khoản trả lại số tiền nói trên vào tài khoản 6100205503190 mang tên Trương Thị X và Mạnh đã chuyển khoản trả lại số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) nói trên cho Trương Thị X.

Sau khi lừa đảo, chiếm đoạt số tiền nói trên của anh Dương Trọng Ph, Trương Thị X đã chặn và hủy kết bạn với tài khoản Zalo của anh Ph, xóa hết toàn bộ tin nhắn và tiêu xài cá nhân hết số tiền đã chiếm đoạt. Còn anh Dương Trọng Ph sau khi chuyển số tiền nói trên, đến 11 giờ 25 phút cùng ngày đã gọi điện thoại cho em gái vợ là Nguyễn Thị Hà M và được biết My không nhắn tin mượn tiền. Biết là có người lợi dụng và giả mạo tên Nguyễn Thị Hà M để lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên đã đến Ngân hàng Vietcombank để yêu cầu thu H lại tiền nhưng không có kết quả. Đến ngày 25/01/2021, anh Ph đã làm đơn trình báo cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên để điều tra, xác minh theo quy định.

Tổng số tiền Trương Thị X đã lừa đảo, chiếm đoạt của anh Dương Trọng Ph là 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng), trong đó: X thu lợi bất chính 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng), X cho bà Lê Thị H số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) và trong quá trình điều tra vụ án bà Lê Thị H đã nộp lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên.

Đối với số tài khoản 0641000035029 thuộc Ngân hàng Vietcombank mang tên Lê Thị H, được Trương Thị X dùng để nhận tiền lừa đảo của anh Dương Trọng Ph. Quá trình điều tra xác định chủ tài khoản là Lê Thị H, sinh năm 1970, trú tại khối 3, thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Lý do Trương Thị X có được là do trong thời gian xuất khẩu lao động tại Đài Loan, X quen biết với người phụ nữ tên Huyền (con gái bà H) và biết bà H có nhu cầu đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan nên X đã môi giới làm hồ sơ cho bà H. Trong quá trình nhờ X làm hồ sơ, bà H đã sử dụng tài khoản ngân hàng của mình để chuyển tiền cho X nên X biết được số tài khoản của bà H và đã lợi dụng số tài khoản đó để yêu cầu anh Dương Trọng Ph chuyển tiền nhằm che dấu hành vi phạm tội của mình. Việc X sử dụng số tài khoản của bà H để nhận tiền lừa đảo chiếm đoạt tài sản bà H không biết.

Đối với số tài khoản 000296156 thuộc Ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế Việt Nam (VIB) mang tên Nguyễn Văn M, quá trình điều tra xác định chủ tài khoản là anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1994, trú tại thôn Tân Long, thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Giang, tỉnh Hà Giang. Lý do Trương Thị X có được số tài khoản là trong quá trình xuất khẩu lao động tại Đài Loan, X quen biết với bà Trần Thị Gấm (mẹ ruột của Nguyễn Văn M), qua trao đổi X giới thiệu với bà Gấm là có người quen làm dịch vụ chuyển tiền về Việt Nam với chi phí thấp nên bà Gấm đã cho X số tài khoản ngân hàng của Mạnh để phục vụ cho việc gửi tiền về Việt Nam và X đã lợi dụng số tài khoản này để yêu cầu anh Ph chuyển tiền nhằm che dấu hành vi phạm tội của mình. Việc X sử dụng tài khoản của anh Nguyễn Văn M để nhận tiền lừa đảo chiếm đoạt tài sản, anh Mạnh không biết.

* Về thu giữ, tạm giữ tài liệu đồ vật; xử lý vật chứng:

Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên đã thu giữ các vật chứng bao gồm:

+ Số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành, do bà Lê Thị H giao nộp, đã trả lại cho anh Dương Trọng Ph.

+ 01 Ph bì niêm Ph đã được niêm Ph, trên Ph bì có chữ ký của những người tham gia niêm Ph, bên trong Ph bì chứa 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu hồng, gắn thẻ sim 0976.806.160 và 01 thẻ nhớ, số IMEI 1:

359614082930277, số IMEI 2: 359615082930274, đã qua sử dụng; thu của Trương Thị X Vật chứng chưa xử lý, chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Xuyên để xử lý theo quy định của pháp luật.

* Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) do Cơ quan điều tra đã tạm giữ của Lê Thị H nộp, nay anh Dương Trọng Ph yêu cầu bị cáo Trương Thị X phải bồi thường số tiền còn lại 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng). Trước khi xét xử Trương Thị X đã nồi thường tiếp cho người bị hại anh Dương Trọng Ph số tiền 16.000.000 đồng. Nay anh Ph không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Với hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số 48/CT-VKS-CX ngày 23/6/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố Trương Thị X về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên sau khi phân tích đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 174, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo Trương Thị X mức án từ 9-12 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời gian thử thách 18 đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng, tiền án phí HSST cũng như quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Trương Thị X không có ý kiến gì tranh luận, xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy:

[1] . Về tính hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Xét về hành vi phạm tội của bị cáo Trương Thị X: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bị cáo X đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với Cáo trạng truy tố, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Từ đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: Ngày 18/01/2021, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân, thông qua mạng xã hội Trương Thị X đã lập tài khoản Zalo “Nguyễn Thị Hà M”, giả mạo làm em gái vợ anh Dương Trọng Ph, kết bạn với tài khoản zalo “Trọng Ph’’ của anh Dương Trọng Ph trú tại xã Cẩm Trung, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, nhắn tin mượn tiền nhằm mục đích để chiếm đoạt. Tổng số tiền Trương Thị X đã chiếm đoạt của anh Ph là 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng), trong đó: X đã chiếm đoạt và sử dụng chi tiêu cá nhân hết số tiền 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng) và X cho bà Lê Thị H số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), hiện bà H đã nộp lại cho cơ quan điều tra và đã trả cho anh Dương Trọng Ph. Trong vụ án này chỉ có một mình Trương Thị X thực hiện hành vi phạm tội.

[3]. Xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, đồng thời trước khi xét xử bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại đầy đủ và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về tính chất hành vi phạm tội và hình phạt: Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nên nguy hiểm cho xã hội. Động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo là Lừa đảo chiếm đoạt tài sản để lấy tiền tiêu xài cá nhân với thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người bị hại. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên xét thấy trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt của người bị hại không lớn và hoàn cảnh bị cáo hiện nay khó khăn đang nuôi hai con nhỏ, trong đó có một cháu dưới 36 tháng tuổi đồng thời trước khi xét xử bị cáo đã bồi thường đầy đủ phần dân sự theo yêu cầu của người bị hại, nay người bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo vì hoàn cảnh gia đình của bị cáo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục bị cáo cũng nghiêm như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên tại phiên tòa.

Trong vụ án này còn có bà Lê Thị H và Nguyễn Văn M, là chủ các tài khoản do Trương Thị X sử dụng để nhận tiền lừa đảo, chiếm đoạt của anh Dương Trọng Ph mà có. Quá trình điều tra bà H và anh Mạnh không biết, không cho phép Trương Thị X chuyển tiền phạm tội mà có vào tài khoản của mình, nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Trước khi xét xử bị cáoTrương Thị X đã tự nguyện bồi thường cho anh Dương Trọng Ph số tiền còn lại 16.000.000 đồng, nay người bị hại không yêu cầu gì thêm nên HĐXX miễn xét.

[6]. Về vật chứng vụ án: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên.

- Tịch thu bán sung công quỹ nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu hồng, đã qua sử dụng thu của Trương Thị X;

- Tịch thu tiêu hủy: số thẻ sim 0976.806.160 và 01 thẻ nhớ đã qua sử dụng thu của Trương Thị X.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1, Điều 174, Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2, Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

1. Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Trương Thị X phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Trương Thị X 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 11/01/2022).

Giao bị cáo Trương Thị X cho chính quyền địa phương xã Nghi Kiều, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người phải thi hành án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điểm a, c, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 1, Điểm a, c khoản 1 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu bán sung công quỹ nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu hồng, đã qua sử dụng thu của Trương Thị X;

- Tịch thu tiêu hủy: số thẻ sim 0976.806.160 và 01 thẻ nhớ đã qua sử dụng thu của Trương Thị X.

Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao ngày 28/6/2021giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Xuyên.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 3, Khoản 1 Điều 21, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Trương Thị X phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (vắng mặt) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về