Bản án về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ số 73/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 15 tháng 9 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Trung T; sinh năm 1959; tại xã H, huyện H, tỉnh T; trú tại: Thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: hưu trí; trình độ văn hoá:12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị H (đều đã chết); vợ là Nguyễn Thị T và có ba con; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: không; bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Lê Chí D; sinh năm 1979; tại xã H, huyện H, tỉnh T; trú tại: Thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: công chức; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Chí N và bà Nguyễn Thị Ch; vợ là Lê Thị Đ và có ba con; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: không; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Bị hại: - Anh Lê Xuân T, sinh năm 1981; nơi cư trú: thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Chị Lê Thị Thanh N, sinh năm 1985; nơi cư trú: thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Dương Văn G; sinh năm: 1964; nơi cư trú: Lô 17BT3, đường T, phường Đ, thành phố T, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Lê Minh Đ, sinh năm 1982; nơi cư trú: tiểu khu 6, thị trấn H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Đặng Văn T, sinh năm 1968; nơi cư trú: thôn C, xã Y, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

Người làm chứng: - Ông Lê Văn M, sinh năm 1947; trú tại: thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Lê Văn Q, sinh năm 1970; trú tại: thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Lê Công C, sinh năm 1965; trú tại: thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1960; trú tại: thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Vũ Văn T, sinh năm 1966; trú tại: thôn V, xã H, huyện H; tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Đỗ Ngọc C, sinh năm 1958; trú tại: thôn P, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Vũ Văn C, sinh năm 1959; trú tại: thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1954; trú tại: thôn M, xã H, huyện H; tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Lê Quang C, sinh năm 1956; trú tại: thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu năm 2013, do có nhu cầu xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) nên ông Lê Xuân Th ở thôn M, xã H, huyện H đến tìm gặp Nguyễn Trung T, khi đó là Bí thư Đảng ủy xã H, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (UBND) xã H để đề nghị được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất số 240/1, tờ bản đồ số 10, bản đồ địa chính năm 1997 xã H diện tích 200m2, là đất lúa (bản đồ địa chính 299) mà gia đình ông Lê Xuân Th đang sử dụng.

Do có mối quan hệ trong gia đình (ông Nguyễn Trung T là cậu ruột ông Lê Xuân Th), nên mặc dù biết việc cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông Lê Xuân Th là không đủ điều kiện nhưng Nguyễn Trung T vẫn nói ông Th đến Uỷ ban nhân dân (UBND) xã để gặp Lê Chí D lúc đó là công chức địa chính xã H để Lê Chí D hướng dẫn làm thủ tục. Sau khi ông Lê Xuân Th đến UBND xã H gặp Lê Chí D, Lê Chí D cũng biết việc lập hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Th là không đủ điều kiện, nhưng vẫn tham mưu cho Nguyễn Trung T hợp thức hoá hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông Th bằng cách xác định nguồn gốc đất là do UBND xã H giao trái thẩm quyền vào năm 1999 và có 01 phiếu thu bị mất, đất sử dụng vào mục đích đất ở nông thôn, sử dụng ổn định, phù hợp với quy hoạch đất ở khu dân cư. Khi nghe Lê Chí D báo cáo về cách thức hợp thức hoá hồ sơ như trên, Nguyễn Trung T đồng ý và chỉ đạo Lê Chí D lập hồ sơ. Lê Chí D và Nguyễn Trung T đều biết việc hợp thức hóa hồ sơ theo cách trên là không đúng, nếu đưa ra họp xét sẽ không nhận được sự ủng hộ và thống nhất của các thành phần liên quan nên cả hai thống nhất sẽ không thông báo cho các thành phần của Hội đồng tư vấn giao đất của xã, không tổ chức cuộc họp lấy ý kiến khu dân cư để xác định nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng đất và xác định sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất. Lê Chí D đã giả mạo chữ ký của các thành phần trong Phiếu lấy ý kiến của khu dân cư nhằm hợp thức hóa hồ sơ. Ngày 30/8/2013 Nguyễn Trung T đã ký tờ trình số 19/TTr-UBND đề nghị UBND huyện H cấp GCNQSDĐ cho các hộ gia đình, cá nhân ở xã H. Ngày 12/9/2013 UBND huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 2325/QĐ-UBND về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân xã H, huyện H, trong đó có hộ gia đình ông Lê Xuân Th và bà Lê Thị Thanh N.

Tại bản Kết luận giám định số 45 ngày 26/8/2021 của Sở TN&MT UBND tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Việc UBND huyện Hà cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình ông Lê Xuân T, bà Lê Thị Thanh N ngày 12/9/2013 là không đúng quy định của pháp luật.

Tại bản Kết luận giám định số 01 ngày 05/10/2021 của Sở Tài chính tỉnh Thanh Hóa kết luận: Việc UBND huyện Hà Trung cấp GCNQSD đất cho hộ gia đình ông Lê Xuân Th, bà Lê Thị Thanh N trên đất không đủ điều kiện để được cấp GCNQSD đất, dẫn đến phải nộp số tiền sử dụng đất 26.000.000 đồng và Lệ phí trước bạ nhà đất 260.000 đồng là không thuộc đối tượng phải nộp tiền vào Ngân sách nhà nước, về mặt pháp lý hộ gia đình trên không được quyền sử dụng đất đã cấp và bị thiệt hại số tiền là: 26.260.000 đồng (hai mươi sáu triệu, hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tại bản Kết luận giám định bổ sung số 02/KLGĐTP-TCKT ngày 29/12/2021 của Sở Tài chính tỉnh Thanh Hoá kết luận:

- Việc UBND huyện Hà Trung cấp GCNQSD đất cho hộ gia đình ông Lê Xuân Th, bà Lê Thị Thanh N năm 2013 là không gây thiệt hại cho Nhà nước;

- Thời điểm hộ ông Lê Xuân Th, bà Lê Thị Thanh Nh thiệt hại số tiền 26.260.000 đồng (hai mươi sáu triệu, hai trăm sáu mươi nghìn đồng) chính là thời điểm xảy ra sai phạm khi cấp GCNQSD đất của UBND huyện H (ngày 12/9/2013).

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung xác định việc UBND huyện H cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông Lê Xuân Th là không đúng quy định nên đã có công văn đề nghị Chủ tịch UBND huyện Hà Trung thu hồi GCNQSDĐ. Ngày 23/10/2021 UBND huyện đã có Quyết định số 8925/QĐ-UBND về việc thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho hộ gia đình ông Lê Xuân Th và bà Lê Thị Thanh N.

Cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 08/08/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo khoản 1, Điều 356 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1, khoản 4, Điều 356; Điều 17; Điều 38; Điều 41; điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; khoản 3, Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với cả hai bị cáo; điểm v, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trung T. Xử phạt Nguyễn Trung T từ 09 đến 12 tháng tù; xử phạt Lê Chí D từ 09 đến 12 tháng tù; cấm các bị cáo đảm nhiệm chức vụ trong các cơ quan Nhà nước trong thời hạn một năm; buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các bản kết luận giám định, đủ cơ sở khẳng định: Lợi dụng chủ trương của Nhà nước về xử lý tồn đọng do việc giao đất trái thẩm quyền, đầu năm 2013, Nguyễn Trung T và Lê Chí D vì lợi ích cục bộ địa phương, muốn tăng nguồn thu cho ngân sách xã để xây dựng nông thôn mới và nâng cao uy tín cá nhân đã lợi dụng chức vụ là chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, công chức địa chính xã, cố ý lập hồ sơ khống, giả mạo chữ ký của các thành phần trong Phiếu lấy ý kiến của khu dân cư nhằm hợp thức hóa hồ sơ, xác định sai nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất để đề nghị UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định của pháp luật cho gia đình ông Lê Xuân Th và bà Lê Thị Thanh N, dẫn đến việc phải thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hành vi của Nguyễn Trung T và Lê Chí D đã làm trái quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp GCNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Làm trái quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 84/2007/NĐ- CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp GCNQSD đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, và giải quyết khiếu nại về đất đai; trực tiếp gây thiệt hại cho gia đình ông Lê Xuân Th số tiền 26.260.000 đồng. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố các bị cáo về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo khoản 1, Điều 356 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, gây bức xúc trong một bộ phận nhân dân, nhất là nhân dân trên địa bàn xã H, làm ảnh hưởng đến uy tín và xói mòn niềm tin đối với cơ quan nhà nước trong nhân dân. Hậu quả hành vi mà các bị cáo gây ra trực tiếp gây thiệt hại cho gia đình ông Lê Xuân Th số tiền 26.260.000 đồng. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành, trong đó Nguyễn Trung T, với cương vị là người đứng đầu chính quyền địa phương ở xã, chỉ vì lợi ích cục bộ muốn tăng thêm nguồn thu cho ngân sách xã, nâng cao uy tín bản thân, biết rõ trường hợp trên không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vẫn chỉ đạo Lê Chí D lập hồ sơ nên bị cáo giữ vai trò cao hơn so với D. Lê Chí D là cán bộ địa chính xã, có trách nhiệm tham mưu cho Chủ tịch xã trong lĩnh vực đất đai ở địa phương, D cũng biết rõ thửa đất trên không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đã tích cực lập khống hồ sơ, giả mạo chữ ký của các thành phần trong Phiếu lấy ý kiến của khu dân cư để đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên Dũng là người thực hành tích cực. Vì vậy, phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải, bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi của mình gây ra, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Trong quá công tác, bị cáo T có nhiều thành tích xuất sắc, được bộ tư pháp tặng bằng khen, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm v, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự; bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; bị cáo Dũng có bố là ông Lê Chí N là thương binh và được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, thuộc trường hợp gia đình có công với cách mạng, trong quá trình công tác bị cáo được tặng thưởng nhiều giấy khen, đây được coi là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Cần áp dụng những tình tiết này để giảm một phần hình phạt cho các bị cáo. Các bị cáo đã thật sự hối cải về hành vi phạm tội của mình, quá trình công tác cũng có nhiều đóng góp cho địa phương và được tặng nhiều danh hiệu khác nhau, để thể hiện sự khoan hồng của nhà nước, cần thiết phải áp dụng khoản 3, Điều 54 Bộ luật hình sự để cho các bị cáo được hưởng mức án ngang bằng nhau và dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.

Các bị cáo phạm tội do lợi dụng chức vụ quyền hạn được giao, vì vậy cần thiết phải cấm các bị cáo đảm nhiệm chức vụ ở cơ quan nhà nước trong một thời hạn nhất định sau khi chấp hành xong án phạt tù.

Trong vụ án này, ông Đặng Văn T nguyên Giám đốc, ông Lê Minh Đ chuyên viên Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện H đã có hành vi thiếu trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao trong quá trình thẩm tra hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử đất. Do chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 360 Bộ luật hình sự năm 2015, nên cơ quan điều tra Công an huyện Hà Trung đã kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính là đúng quy định. Đối với ông Dương Văn G nguyên phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H là người được ủy quyền thay mặt UBND huyện H trực tiếp ký quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Lê Xuân Th, việc ký quyết định là do sai sót của cán bộ tham mưu, ông G không buộc phải biết nên không có lỗi.

[3]. Về bồi thường: Các bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Th, bà N số tiền 26.260.000đ (hai sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng). Ông Th, bà N không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thêm, nên miễn xét.

[4]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 4, Điều 356; Điều 17; Điều 38; Điều 41; điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; khoản 3, Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với cả hai bị cáo; điểm v, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trung T.

1. Về tội danh: Các bị cáo Nguyễn Trung T và Lê Chí D phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

2. Về hình phạt chính:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Xử phạt bị cáo Lê Chí D 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

3. Về hình phạt bổ sung:

Cấm các bị cáo Nguyễn Trung T, Lê Chí D đảm nhiệm chức vụ ở cơ quan Nhà nước trong thời hạn 01 (một) năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Nguyễn Trung T và Lê Chí D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ số 73/2022/HS-ST

Số hiệu:73/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về