Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 71/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 71/2022/HS-ST NGÀY 25/11/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN

Ngày 25 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2022/HSST ngày 03 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị M; Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 12/03/1977, tại: Nghệ An;

Nơi cư trú: Tổ 93, phường Hòa M, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 12/12.

Cha là ông Nguyễn Văn C (đã chết), mẹ là bà Phan Thị H (Sinh năm: 1933, còn sống), gia đình có 7 người con bị cáo là con út. Chồng là Đào Thanh L (Sinh năm: 1965), bị cáo có 02 người con lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2009.

Tiền án; tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Văn H, sinh năm 1980. Trú tại: số K135/21 đường T, phường Hòa An, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

2. Anh Từ Nhật H1, sinh năm: 1981. Trú tại: K304/13 đường T, phường Hòa An, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Thanh Anh K, sinh năm: 2001. Trú tại: Tổ 6, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Huy H3, sinh năm:1996. Trú tại: Tổ 93, phường Hòa M, quận L, thành phố Đà Nẵng. Đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cuối năm 2021, thông qua phương tiện thông tin đại chúng, Nguyễn Thị M biết được, từ đầu năm 2022, Nhà nước sẽ xử phạt lỗi sử dụng xe máy không chính chủ, nhu cầu sang tên xe máy sẽ tăng cao nên đã nảy sinh ý định làm dịch vụ sang tên xe để có thêm thu nhập. Bị cáo đã sử dụng điện thoại của con mình là Nguyễn Huy H3 để tìm kiếm trên mạng xã hội facebook thông tin về một đối tượng có thể làm giả hợp đồng mua bán xe có chứng thực. Để thực hiện dịch vụ sang tên xe máy, M đã liên hệ đặt mua của 01 đối tượng (không rõ nhân thân lai lịch) 02 hợp đồng mua bán xe máy có chừa trống thông tin của bên mua, bên bán và có lời chứng thực hợp đồng giao dịch, có chữ ký của người tiếp nhận hồ sơ tên Y B; người chứng thực tên Đặng D, chức vụ là phó chủ tịch UBND xã Quang Vinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum và có đóng dấu tròn với dòng chữ “U.B.N.D XÃ VINH QUANG TP. KON TUM T. KOM TUM*” với giá 700.000 đồng.

Đầu tháng 01/2022, qua giới thiệu của bạn bè, anh Trần Văn H biết M làm dịch vụ sang tên xe máy nên đã liên hệ M để nhờ sang tên xe máy hiệu Honda WinnerX gắn biển kiểm soát: 43G1-X.72 đứng tên chủ sở hữu Từ Nhật H1 sang cho anh Nguyễn Thanh Anh K với giá từ 900.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thỏa thuận sau khi M làm xong thủ tục sẽ giao tiền. Sau khi nhận được giấy đăng ký xe và thông tin của các bên mua bán từ anh H thì M điền thông tin vào hợp đồng đã đặt mua trước đó, tự ký giả chữ ký của các bên mua bán và tự viết lời chứng thực, số chứng thực. Trong quá trình viết, M viết sai 01 hợp đồng nên đã tự tiêu hủy, không thu giữ được. Đến ngày 14/01/2022, M mang hợp đồng mua bán xe máy đi làm thủ tục để nộp thuế, sau đó đến đội Cảnh sát giao thông, Công an quận C để làm thủ tục sang tên thì bị phát hiện.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) hợp đồng mua bán xe máy ghi ngày 04/01/2022 kèm theo tờ “Lời chứng chứng thực hợp đồng giao dịch” có số chứng thực 1589, quyển sổ 2083- SCT/HĐ-GD (Ký hiệu A);

- 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô hiệu Honda WinnerX gắn biển kiểm soát 43G1-X.72 mang tên Từ Nhật H1;

- 01 (một) giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước;

- 01 (một) giấy bán xe (bản photo);

- 01 (một) giấy khai đăng ký xe;

Theo kết luận giám định số 43/KLTL-KTHS ngày 26/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tp. Đà Nẵng kết luận chữ viết có mực màu xanh trên tài liệu ký hiệu A là do Nguyễn Thị M viết ra. Đối với chữ ký mang tên “Y B” dưới mục “Người tiếp nhận hồ sơ” và chữ ký mang tên “Đặng D” dưới mục “Người thực hiện chứng thực PHÓ CHỦ TỊCH” ở tài liệu A so với chữ ký Y B và chữ ký Đặng D trên các tài liệu mẫu so sánh không phải do cùng một người ký ra. Đối với hình dấu tròn giáp lai và hình dấu tròn dưới mục “Người thực hiện chứng thực PHÓ CHỦ TỊCH” có dòng chữ “U.B.N.D XÃ VINH QUANG TP. KOM TUM T. KOM TUM*” ở tài liệu A so với hình dấu có cùng nội dung trên các tài liệu mẫu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Từ những tình tiết nêu trên, tại Cáo trạng số: 66/CT-VKSCL ngày 28/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận C đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị M về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C thực hiện quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội: giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng; đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M mức hình phạt từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Xử lý vật chứng:

- 01 (một) hợp đồng mua bán xe máy ghi ngày 04/01/2022 kèm theo tờ “Lời chứng chứng thực hợp đồng giao dịch” có số chứng thực 1589, quyển sổ 2083- SCT/HĐ-GD; 01 (một) giấy bán xe (bản photo); 01 (một) giấy khai đăng ký xe, 01 (một) giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước là tài liệu kèm theo hồ sơ vụ án.

- 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô hiệu Honda WinnerX gắn biển kiểm soát 43G1-X.72 mang tên Từ Nhật H1 đề nghị trả lại cho anh Trần Văn H;

Vấn đề khác:

- Đối với anh Trần Văn H là người nhờ bị cáo thực hiện thủ tục sang tên cho anh Nguyễn Thanh Anh K, nhưng anh H và K không biết về việc M lên mạng đặt mua và sử dụng hợp đồng mua bán xe máy giả nên Cơ quan CSĐT Công an quận C không đề cập xử lý là có cơ sở.

- Đối với anh Nguyễn Huy H3 là con trai của bị cáo không biết về việc bị cáo sử dụng điện thoại của mình để liên lạc đặt làm hợp đồng mua bán xe máy nên Cơ quan CSĐT Công an quận C không đề cập xử lý là có cơ sở.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận C truy tố. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng là bị cáo vô cùng ân hận về hành vi của mình, và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an quận C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố, xét xử của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và vật chứng thu hồi được, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập thể hiện tại hồ sơ vụ án, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Vào cuối năm 2021, Nguyễn Thị M thông qua mạng xã hội Facebook đã đặt một đối tượng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) làm giả 02 hợp đồng mua bán xe máy có chữ ký và đóng dấu chứng thực giả của UBND xã Quang Vinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Đến ngày 14/01/2022, Nguyễn Thị M đã sử dụng 01 hợp đồng có đóng dấu chứng thực giả này để làm thủ tục sang tên cho xe mô tô hiệu Honda Winner X gắn biển kiểm soát 43G1-X.72 của anh Từ Nhật H1 sang cho anh Nguyễn Thanh Anh K thì bị đội Cảnh sát giao thông, Công an quận C phát hiện. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận C truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe, có nhận thức pháp luật và xã hội nhất định, nhưng vì mong muốn có tiền tiêu xài nên bất chấp hậu quả, coi thường pháp luật, làm giả hợp đồng mua bán xe máy có chữ ký và đóng dấu chứng thực giả của cơ quan nhà nước và sử dụng tài liệu đó để thu lợi bất chính. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước được pháp luật bảo vệ. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo ăn năn hối cải” và “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX xét thấy bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo giản đơn và chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng nên chỉ cần áp dụng hình phạt tiền cũng đảm bảo được tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành một công dân lương thiện và có tác dụng phòng ngừa chung.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) hợp đồng mua bán xe máy ghi ngày 04/01/2022 kèm theo tờ “Lời chứng chứng thực hợp đồng giao dịch” có số chứng thực 1589, quyển sổ 2083-SCT/HĐ-GD; 01 (một) giấy bán xe (bản photo); 01 (một) giấy khai đăng ký xe, 01 (một) giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước là tài liệu kèm theo hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô hiệu Honda WinnerX gắn biển kiểm soát 43G1-X.72 mang tên Từ Nhật H1. Đây là giấy tờ anh H đưa cho bị cáo để làm thủ tục sang tên và không biết về hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho anh Trần Văn H.

[5] Vấn đề khác:

- Đối với anh Trần Văn H là người nhờ bị cáo thực hiện thủ tục sang tên cho anh Nguyễn Thanh Anh K, nhưng anh H và K không biết về việc M lên mạng đặt mua và sử dụng hợp đồng mua bán xe máy giả nên Cơ quan CSĐT Công an quận C không đề cập xử lý là có cơ sở nên chấp nhận.

- Đối với anh Nguyễn Huy H3 là con trai của bị cáo không biết về việc bị cáo sử dụng điện thoại của mình để liên lạc đặt làm hợp đồng mua bán xe máy nên Cơ quan CSĐT Công an quận C không đề cập xử lý là có cơ sở nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 341; Điều 35, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị M 40.000.000 đồng.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Trả lại cho anh Trần Văn H 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô hiệu Honda WinnerX gắn biển kiểm soát 43G1-X.72 mang tên Từ Nhật H1.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 71/2022/HS-ST

Số hiệu:71/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về